Các thiên thạch khổng lồ tiếp tục va đập vào Trái đất cho đến khoảng 3.8K triệu năm trước mới dừng lại. Khi các thiên thạch va vào bề mặt Trái đất, chúng tạo ra một nhiệt lượng và các nhà khoa học cho rằng nhiệt lượng này có thể đủ làm nước biển sôi. Điều đó có thể đã huỷ hoại bất kì hình thái đầu tiên nào của sự sống.


Ban đêm, bò sát bị lạnh và chúng phải nằm nghỉ. Buổi sáng, chúng nằm dưới nắng Mặt trời cho đến khi cơ thể ấm lên. Sau đó, chúng có thể bắt đầu đi đây đó để tìm thức ăn.


Đuôi dài để cân bằng với trọng lượng của đầu.


Hylonomus có khung xương và các lá phổi khoẻ để đẩy không khí vào và ra khỏi cơ thể.


Khoảng 225 triệu năm trước, những con khủng long đầu tiên đã tiến hoá từ loài archosaur mình nhỏ có hai chân. Khung long khác với các loài bò sát khác vì chúng có chân dài hơn, thẳng đứng hơn để có thể đung đưa từ đằng trước ra sau thay vì chìa ra hai bên thân.

160 triệu năm sau, chúng trở thành động vật trên cạn to nhất, khoẻ nhất và nhanh nhất trên thế giới.


Thân và lá cây thường cứng và rất khó tiêu hoá, nhất là khi chúng không được nhai kĩ. Để nghiền được đồ ăn, sauropod nuốt cả những viên đá cuội lớn. Những viên đá này lăn qua lăn lại trong dạ dày to lớn của con vật đã nghiền nát cây cỏ thành một loại súp đặc.


Khoảng 66 triệu năm trước, hầu hết các loài bò sát biển đều dần dần chết hết. Mặc dù cá sâu và rùa còn sống sót, nhưng cá sấu ngày nay sống trong nước ngọt hơn là trong biển. Chỉ có rùa là loài bò sát duy nhất cho đến nay vẫn cả đời sống trong biển.


Gần cuối kỉ Creta, Trái đất bị va đập bởi một khối đá khổng lồ, tức là thiên thạch, rộng tới 10km. Khi khối thiên thạch va mạnh vào Trái đất, nó vỡ thành những hạt nhỏ và tạo ra những đám bụi bao phủ cả hành tinh.

Đám bụi này đã khiến Trái đất lạnh và tối trong nhiều tháng, làm chết bất kì loài sinh vật nào cần đến nhiệt năng bên ngoài để tồn tại. Không có ánh sáng, nhiều loài thực vật cũng chết, khiến động vật không có cái ăn. Có thể khối thiên thạch đó còn gây ra những vụ động đất lớn và những đợt thuỷ triều khổng lồ.


Một giả thuyết khác cho rằng nhiều núi lửa khắp thế giới có thể đã bùng phát cùng một lúc. Các núi lửa hoạt động đã tuôn trào một lượng lớn dung nham lên bề mặt Trái đất và đẩy những đám bụi và khí độc bốc lên cao trong không khí. Những khí độc đó cũng có thể đã tạo ra những trận mưa axit độc hại xuống Trái đất.


Không ai biết vì sao những con vật này vẫn sống sót. Có thể loài có vú tự sinh nhiệt, vì vậy chúng vẫn được ấm áp trong khí trời giá lạnh hơn trước. Các loài chim cũng có thể tự làm ấm cơ thể và loài bò sát nhỏ, như thằn lằn, có thể đã đào hang sâu trong lòng đất để giữ ấm.


Loài động vật có vú đầu tiên xuất hiện gần như đồng thời với những con khủng long đầu tiên, nhưng khác với khủng long, chúng không biến đổi hoặc phát triển nhanh chóng. Trong hơn 100 triệu năm, cho đến khi loài khủng long đã tuyệt chủng, cơ thể động vật có vú vẫn rất nhỏ. Chúng đi lại khẽ khàng và thường là chỉ ra ngoài vào ban đêm khi hầu hết các sinh vật khác đang ngủ.


Có thể tất cả động vật có vú đầu tiên đều đẻ trứng, nhưng khoảng 100 triệu năm trước, một số động vật có vú bắt đầu sinh những đứa con rất nhỏ. Những con vật mới sinh đó trườn vào một cái túi trong bụng mẹ nó và tiếp tục lớn lên ở đó.


Sau khi loài khủng long bị tuyệt chủng, cuộc sống trở nên ít nguy hiểm hơn đối với các động vật có vú. Chúng bắt đầu ăn nhiều loại thức ăn hơn và bắt đầu thăm dò những nơi mới để sinh sống.

Cách đây khoảng 30 triệu năm, phần lớn các loài động vật có vú đã tiến hoá. Chúng phát triển ra khắp thế giới và nhanh chóng trở thành nhóm sinh vật nhanh nhất, khoẻ nhất và thông minh nhất trên trái đất.


Những động vật có vú đầu tiên ăn thịt gọi là ceodont. Chúng có bộ não nhỏ, chân ngắn và bàn chân phẳng. Điều đó không quan trọng lắm vì những động vật có vú ăn thực vật mà chúng săn tìm cũng kém thông minh và chậm chạp như chúng vậy.


Khoảng 40 triệu năm trước, thời tiết trên Trái đất bắt đầu lạnh dần. Dần dần, phần lớn những khu rừng nhiệt đới được thay thế bằng những đồng cỏ. Các loài ăn thực vật buộc phải ăn cỏ. Đó là thứ đồ ăn cứng khó nhai, khó tiêu hoá và nhiều loài vật đã chết vì không thể thích nghi được với loại thức ăn mới này.


Loài ăn có nhai và nuốt thức ăn thành nhiều lần bằng cách đưa một phần thức ăn đã được tiêu hoá trở lại miệng để nhai lại.


Tại Đông Phi, những khu rừng nơi vượn người phương nam sinh sống bắt đầu biến mất. Việc tìm kiếm trái cây và lá để ăn trở nên khó khăn hơn, vì thế loài vượn người này đã phải đi xa hơn để kiếm cái ăn. Việc dùng 2 chân để đi đỡ mệt hơn là dùng 4 chân.

Đứng thẳng cũng giúp vượn người dễ phát hiện hơn những con thú nguy hiểm ẩn trong đám cỏ mọc cao ven rừng.


Việc ăn thịt cho phép người Hôm habilis đi xa hơn vượn người phương nam. Vì họ không còn phải sống quá gần các loài thực vật và trái cây nữa, họ có thể thăm dò những vùng đất rộng hơn. Thực phẩm mới này cũng cung cấp cho họ nhiều năng lượng hơn và giúp bộ óc phát triển lớn hơn.


Thực phẩm chín dễ nhai hơn, vì thế răng và hàm của họ dần dần nhỏ lại. Vì họ ăn nhiều thịt, cơ thể họ khoẻ hơn, cao hơn và bộ óc cũng trở nên lớn hơn.


Vùng đất bằng phẳng của Sumer rất phù hợp với nghề nông, nhưng lại rất ít mưa. Mỗi năm một lần, hai con sông dâng nước lên làm vùng đất khô cằn này thấm đẫm nước. Người Sumer đào kênh, mương để chứa nước và dẫn nước vào ruộng.


Mọi người cho rằng nếu họ đặt một bức tượng trong đền thờ thì bức tượng đó sẽ cầu nguyện cho họ.


Một con lừa kéo xe có thể chở gấp 3 lần trọng lượng đồ vật so với thồ trên lưng.


Mỗi thành phố ở Sumer đều do một nhóm quý tộc cai quản. Trong thời chiến, họ bầu ra một nhà lãnh đạo để cai trì thành phố cho đến khi chiến tranh kết thúc. Khi các cuộc chiến tranh trở nên thường xuyên hơn, các nhà lãnh đạo thời chiến sẽ cai trị thành phố trong khoảng thời gian lâu hơn. Cuối cùng, họ trở thành những vị vua cai trị suốt đời và truyền ngôi cho các con trai của họ.


Từ khoảng năm 1250 TCN, nhiều vụ mùa bị thất thu. Một số người Mycenae tiến đánh các thành phố của nhau để cướp gia súc và nông sản. Thậm chí một số còn rời bỏ Hy Lạp để tìm quê hương mới và các thành phố của họ dần bị bỏ hoang.


Người Hebrew đã chiến đấu để bảo vệ đất đai của họ chống lại người Philistine đang định cư vùng ven biển. Người Hebrew đã chọn một người là Saul làm vua để lãnh đạo họ trong cuộc chiến, nhưng người anh hùng của cuộc chiến này lại là cậu bé David. Kinh thánh đã để lại câu chuyện David giết được người chiến binh Philistine mạnh nhất chỉ bằng một hòn đá được lăng ra từ dây quăng đá.

David trở thành vua sau khi Saul chết. Ông đánh bại người Philistine và thống nhất người Hebrew thành một vương quốc gọi là Israel. Ông chiếm Jerusalem và biến nơi đây thành kinh đô của mình.


Người Phoenicia đã phát minh hệ chữ Latinh đơn giản chỉ có 22 chữ cái. Dần dần hệ chữ này phát triển thành hệ chữ cái ABC mà chúng ta dùng ngày nay.


Khi không bận chinh chiến, các ông vua Assyria săn sư tử để tỏ rõ tài nghệ và lòng dũng cảm của mình.


Sau khi nền văn minh Mycenae sụp đổ, cuộc sống ở Hy Lạp trở nên khó khăn. Dân chúng phải dành toàn bộ thời gian vào việc gieo trồng lương thực và quên đi nhiều kĩ năng đã học được như là chữ viết. Giai đoạn này gọi là Thời kì Đen tối của Hy Lạp.


Mỗi con tàu có 170 tay chèo.


Đây là đền thờ nữ thần trí tuệ và chiến tranh Athene. Ngôi đền được gọi là Parthenon.


Alexander đánh bại người Ba Tư năm 331 TCN. Sau đó, quân đội ông đã chiếm được cung điện Persepolis và đốt trụi lâu đài này.


Sau khi Alexander qua đời, các viên tướng của ông đánh lẫn nhau tranh giành quyền kiểm soát đế chế. Antigonas chiếm Hy Lạp và Macedonia. Ptolemy chiếm Ai Cập và gia tộc ông đã cai trị ở đó trong 300 năm tiếp theo. Phần còn lại bị Seleucus cai trị và trở thành đế chế Seleucid. Cuối cùng cả 3 vương quốc nói trên đều bị La Mã thôn tính.


Tơ do tằm tạo ra. Trong khi biến mình thành bướm, con tằm đã nhả ra những sợi tơ kết thành tổ, gọi là tổ kén, và thu mình vào đó để an toàn. Người Trung Quốc là người đầu tiên đã học được cách gỡ sợi tơ ra khỏi kén tằm và xe thành sợi để dệt nên những tấm lụa mịn màng.


Để giúp dân chúng biết được tương lai, các thầy bói đã khắc các câu hỏi lên các khúc xương, được gọi là xương bói. Sau đó, họ hơ nóng các khúc xương cho đến khi xương rạn ra tạo thành các vết nứt và họ “đọc” các vết nứt đó như những câu trả lời về tương lai.


Một nhà tư tưởng là Khổng Tử đã sống trong thời kì rối ren đó. Ông dạy rằng chiến tranh chỉ có thể chấm dứt khi mọi người biết cách cư xử đúng phép. Dân phải tuân phục vua và vua phải đối đãi tử tế với dân chúng.


Lạc đà có thể đi 8 ngày liền không cần uống nước.


Hàng ngàn năm trước đây, sa mạc Sahara là 1 vùng đất có các hồ nước và bãi cỏ xanh tươi.

Vào năm 4000 TCN, khí hậu khô nóng đã biến đồng cỏ thành sa mạc. Sa mạc Sahara đã chia châu Phi thành 2 phần: cuộc sống ở miền bắc phát triển khác xa so với cuộc sống ở miền nam.


Nhiều năm sau, ông hiểu ra rằng con người đau khổ vì những ham muốn của chính mình và chỉ biết lo cho bản thân. Hiểu được điều đó, ông trở thành Buddha, có nghĩa là “người tỉnh thức.”


Người TQ đã chọn từ “Phật” để dịch từ “Buddha.” Do ảnh hưởng của văn hoá TQ, tại VN, từ “Phật” dần dần thay thế từ “Bụt” được dùng trước đó.


La Mã lúc đầu chỉ là 1 ngôi làng nhỏ làm nghề nông ven sông Tiber. Thời gian trôi qua, vùng này có thêm nhiều ngôi làng khác và cuối cùng các làng này kết hợp với nhau tạo ra 1 thành phố.


Cho đến khoảng năm 509 TCN, La Mã vẫn do các quốc vương cai trị. Sau đó, ông vua cuối cùng bị đuổi khỏi thành phố và La Mã trở thành 1 nước cộng hoà. Cộng hoà La Mã do viện Nguyên Lão, gồm 1 nhóm người từ các gia đình có thế lực nhất của thành phố điều hành. Dưới sự lãnh đạo của viện Nguyên Lão, La Mã dần dần chinh phục toàn bộ bán đảo Italy.


Những người La Mã giàu sang có nhiều thời gian rảnh rỗi vì các nô lệ đã làm mọi việc cho họ. Ở La Mã có rất nhiều nô lệ đến nỗi người nghèo không tìm được việc làm. Để họ được yên vui, hoàng đế La Mã đã cung cấp thực phẩm miễn phí và tổ chức các cuộc biểu diễn ngoạn mục.


Khoảng năm 200, sức mạnh của đế chế La Mã bắt đầu suy giảm. Các đạo quân La Mã bắt đầu bầu ra các hoàng đế riêng và xung đột bùng nổ giữa các đội quân. Trong khi đó, đế chế này bị các bộ tộc từ vùng đông bắc tấn công. Các bộ tộc này được gọi là người German, nhưng người La Mã gọi họ là người man rợ (Barbarian).


Người man rợ muốn được giàu có như người La Mã, nhưng trên thực tế họ đã huỷ diệt cách sống của người La Mã. Hầu hết người man rợ làm nghề nông, họ sống trong những ngôi làng nhỏ và bỏ mặc các thành phố La Mã rơi vào cảnh hoang tàn.


Caliph: Từ tiếng Ả Rập “khalifah” có nghĩa là “người nối nghiệp,” tức là chức sắc cao nhất trong thế giới Hồi giáo, có thể so sánh với chức giáo hoàng của Thiên chúa giáo. Tuy nhiên, các caliph Hồi giáo không có quyền phong thánh và cũng không được phép sửa đổi giáo điều hay giáo luật như các giáo hoàng.


Người Ả Rập ham học hỏi những ý tưởng của dân tộc khác. Họ sưu tầm sách từ khắp nơi trên thế giới và cất giữ chúng trong các thư viện. Các học giả Ả Rập nghiên cứu tác phẩm của Hy Lạp, Ba Tư, Ấn Độ, và Trung Quốc cổ đại và dịch chúng sang tiếng Ả Rập. Họ cũng tự mình viết sách để dạy sinh viên trong các trường đại học.


Mặc dù các caliph dòng họ Abbasid tự nhận mình là những người thống trị thế giới Hồi giáo, nhưng đến cuối thế kỉ 8, đế chế của họ bị chia thành các vương quốc nhỏ ở TBN, Ai Cập và Ấn Độ. Năm 1055, quân đội Thổ Nhĩ Kỳ chiếm Baghdad. Người Thổ Nhĩ Kỳ đã kiểm soát các caliph suốt từ đó cho đến năm 1258, khi quân đội Mông Cổ xâm chiếm Baghdad và giết vị caliph cuối cùng.


Từ “Viking” có thể có nghĩa là “cướp biển.”


Tại miền bắc nước Pháp, người Viking được gọi là người Norman (người miền bắc) và ở Đông Âu, họ được gọi là Rus (dân tóc đỏ). Những vùng đất họ sinh sống được đặt tên là Normandy và Russia.


Vào khoảng năm 400, các bộ tộc người Angle, Saxon và Jute từ Đan Mạch và miền bắc nước Đức bắt đầu đến đảo Britain. Về sau, những người này được gọi là Anglo-Saxon và vùng đất mà họ định cư là “Angle land,” ngày nay là nước Anh. Vào năm 600, nước Anh bị chia thành 7 vương quốc, mỗi vương quốc do 1 ông vua là chiến binh trị vì.


Đế chế của Charlemagne không tồn tại được lâu sau khi ông qua đời. Năm 843, đế chế này bị chia thành 3 vương quốc và mỗi vương quốc đều đặt dưới sự cai trị của 1 người trong gia đình Charlemagne. 3 nhà cầm quyền này đánh lẫn nhau và các vương quốc của họ trở nên vô cùng suy yếu.


Năm 1275, các hiệp sĩ nước Anh và dân các thành phố đã cùng với các quý tộc và giám mục tham gia 1 hội đồng mới, đó là quốc hội. Trong 100 năm kế tiếp, nhiều hội đồng như vậy đã được thành lập để hạn chế quyền lực của các quốc vương ở châu Âu.


Những người thợ thủ công cùng sản xuất 1 loại hàng bắt đầu tập hợp lại thành những nhóm đặc biệt gọi là phường hội. Các phường hội này đảm bảo sao cho tất cả thành viên đều làm ra những mặt hàng chất lượng cao, giá cả và tiền công hợp lý. Các nhà buôn cũng có phường hội của mình để đảm bảo việc buôn bán của họ được công bằng.


Những người muốn tham gia phường hội phải trải qua thời kỳ học việc trong 7 năm với 1 thợ cả. Tiếp đó, họ phải làm được những mặt hàng thuộc loại “tinh xảo,” lúc đó họ mới được gia nhập phường hội với tư cách là thợ đã thạo việc. Chỉ 1 vài người thợ thạo việc mới trở thành thợ cả.


Một số thành phố lớn ở Đức và Italy có các nhà lãnh đạo riêng. Họ sống trong các lâu đài và ban hành các luật lệ cho thành phố của họ. Những thành phố độc lập đó gọi là thành bang.


Vào năm 1250, người Thiên chúa giáo đã lấy lại được toàn bộ TBN trừ vương quốc Granada. Sở dĩ Granada vẫn tồn tại trong 1 thời gian rất dài vì các sultan (người trị vì) của vương quốc này đã nộp 1 khoản tiền lớn, gọi là cống phẩm, cho các quốc vương của Leon và Castile, nhưng cuối cùng năm 1492 Granada vẫn bị thôn tính.


Năm 1400, các vua Khmer trở nên suy yếu. Nhiều người dân nổi dậy chống lại họ và năm 1431, kinh thành Angkor bị quân đội của vương quốc Sukhothai thôn tính.


Năm 500, hoàng tộc Yamato kiểm soát phần lớn Nhật Bản. Họ thán phục cách cai trị đất nước của các hoàng đế TQ và họ đã xây dựng kinh đô Nara của mình giống như Trường An của TQ.


Mặc dù không có những chiếc xe được lắp bánh hoặc những công cụ bằng kim loại, người Inca vẫn xây dựng được những thành phố bằng đá đáng khâm phục.


Vào những năm 1400, nhiều người đã nghiên cứu các tác phẩm của Hy Lạp và La Mã cổ. Những tác phẩm đó đã khiến người ta nhận ra rằng con người có thể đạt được vô số thành tựu và điều đó đã mở ra niềm tin mới về năng lực của con người. Niềm tin đó, gọi là chủ nghĩa nhân văn, đã lan rộng khắp châu Âu trong khi các nghệ sĩ, nhà văn và cá nhà khoa học tiếp tục đưa vào thử nghiệm những ý tưởng mới.


Các nhà lãnh đạo Công giáo đã đào tạo những người vừa là linh mục vừa là giáo viên, gọi là Jesuit. Họ đã viết sách và giảng đạo đả kích những người Kháng Cách, đồng thời sử dụng Toà án dị giáo, 1 hệ thống các toà án do các tu sĩ điều hành, để tìm và trừng phạt những người Kháng Cách.


Sau trận hoả hoạn, nhiều khu vực rộng lớn của London đã được xây dựng lại và người ta sử dụng đá thay cho gỗ trước đây. Vào những năm 1690, London đã có nhiều toà nhà mới đẹp đẽ.


Trong thời gian diễn ra cuộc khởi nghĩa Hà Lan, cảng Antwerp giàu có bị quân TBN phá huỷ. Nhiều nhà buôn và chủ ngân hàng tại các tỉnh này đã chuyển lên miền bắc đến Amsterdam. Thành phố Amsterdam được xây dựng lại với 1 hệ thống kênh đào bao quanh và những năm 1600, thành phố này trở thành hải cảng sầm uất nhất châu Âu.


Tổng hợp kiến thức. Nhiều cuốn sách đã ghi lại những phát hiện mới đang được tiến hành. Denis Diderot đã tổng hợp các kiến thức trong cuốn bách khoa 35 tập. Samuel Johnson đã soạn 1 cuốn đại từ điển tiếng Anh và Carl Linnaeus đã công bố những nghiên cứu chi tiết về các loài thực vật và ông đã phân chia chúng thành các loại và các loài khác nhau.


Các nhà khoa học thường sử dụng các mô hình để giúp họ giải thích các ý tưởng của mình.


Ông đã dành ra 18 tháng đến sống ở Bắc Âu. Ông tham quan các nhà máy, nông trại và bệnh viện, thậm chí ông đã làm việc trong 1 xưởng đóng tàu.


Trở lại nước Nga, Peter tổ chức lại chính phủ, giảm bớt quyền lực của quý tộc. Công nhân từ các nước châu Âu đã đến Nga để giúp xây dựng các kênh đào, đóng tàu và xây dựng các nhà máy.


Mùa đông đầu tiên vô cùng khắc nghiệt, nhưng với sự giúp đỡ của người Mỹ bản địa, một nửa số người mới đến định cư đã sống sót.

Sau vụ gặt đầu tiên, những người Hành hương nấu 1 bữa ăn giản dị và tổ chức 1 buổi lễ tạ ơn. Hằng năm vào tháng 11, nhiều người Mỹ đã tưởng nhớ sự kiện này bằng 1 bữa ăn Tạ ơn.


Các nô lệ bị dồn ép chật cứng như nêm, bị xích lại với nhau thành từng chuỗi và bị bỏ trong khoang tối suốt chuyến đi kéo dài 8 tuần. Bệnh tật lan nhanh trên các con tàu đó và hơn 1/3 nô lệ đã chết trước khi đến được châu Mỹ.


Năm 1789, chính phủ không còn tiền và nước Pháp trong tình trạng tuyệt vọng. Để cứu vãn tình thế, nhà vua buộc phải triệu tập 1 cuộc họp của nghị viện Pháp mà đã gần 200 năm không họp.


Một số người dự cuộc họp của nghị viện thuộc giai cấp trung lưu như nhà buôn và luật sư. Khác với giới quý tộc, giai cấp trung lưu phải đóng thuế và họ đòi tất cả mọi người phải đóng mức thuế hợp lý, nhưng nhà vua từ chối. Điều này đã khiến nhiều người Pháp nổi giận.


Vào thế kỉ 18, đường bộ thường mấp mô, lầy lội và các xe chở hàng do súc vật kéo thường bị cướp biển tấn công, vì thế các chủ nhà máy phải tìm cách khác để vận chuyển hàng. Họ đã sử dụng kênh đào trong nhiều năm nhưng thuyền đi trên kênh rất chậm. Sau đó, đầu thế kỉ 19, các nhà phát minh người Anh đã phát hiện ra cách thức chế tạo tàu hoả chạy bằng hơi nước. Phát minh này đã khiến việc đi lại trên những tuyến đường dài trở nên dễ dàng hơn nhiều.


Những người không có tiền hoặc không có khả năng lao động được đưa vào sống trong những nơi gọi là trại tế bần, cũng gần như nhà tù. Một khi đã vào đó, họ phải làm việc trong nhiều giờ và khó lòng ra khỏi trại. Những gia đình vào đó bị chia rẽ và gần như chẳng bao giờ được gặp lại nhau nữa.


Đầu thế kỉ 19, các nước ngày nay là Hy Lạp, Italy và Đức chưa hình thành. Đức và Italy lúc đó gồm nhiều quốc gia nhỏ và một số trong đó bị nước ngoài thống trị. Hy Lạp vẫn là 1 phần của đế chế Ottoman.


Quân đội Mỹ và những người định cư còn giết phần lớn những đàn trâu thả rông trên các đồng bằng để những bộ tộc còn sót lại thiếu cái ăn. Cho đến năm 1890, nhiều thổ dân Mỹ bị bắt và bị buộc phải sống trong các trại có lính Mỹ canh giữ.


Các hoàng đế nhà Thanh buộc thương nhân người Âu phải thanh toán tiền hàng cho các nhà buôn TQ bằng bạc trắng, 1 thứ kim loại quá đắt đỏ với người Âu. Trong những năm 1720, người Anh bắt đầu thanh toán tiền hàng với người TQ bằng 1 loại ma tuý gọi là thuốc phiện thay thế đồng bạc trắng.


Trái với mong đợi của các samurai, các hoàng đế Nhật Bản tiếp tục buôn bán với phương Tây và đã áp dụng nhiều ý tưởng của phương Tây vào Nhật Bản. Họ lập ra quốc hội, cải thiện các trường học và xây dựng nhà máy, đóng tàu hoả và tàu biển. Trong khi đó, các samurai đã mất gần hết quyền lực và phần lớn phải chuyển sang làm những công việc bình thường.


Để có đủ lương thực cho công nhân các nhà máy, Stalin cần phải tổ chức lại sản xuất nông nghiệp. Nông dân được kêu gọi từ bỏ các mảnh ruộng nhỏ của mình và gộp chúng lại để thành lập các nông trại lớn, gọi là nông trang tập thể. Nông dân được trả lương để làm việc trong các nông trang đó và các sản phẩm mà họ thu hoạch được bán lại cho chính phủ.


Lúc đầu chỉ có vài người có máy thu hình vì mỗi chiếc có giá ngang với 1 chiếc xe hơi nhỏ. Nhưng đến những năm 1950, truyền hình đã trở thành hình thức giải trí thông dụng nhất.