Canh tác vất vả hơn săn bắt và hái lượm, nhất là khi con người mới bắt đầu làm quen với việc cày xới đất đai nhưng lại thiếu công cụ bằng kim loại hặc những con vật thuần thục để giúp họ đỡ khó nhọc.

Chính vì sự cực nhọc như thế mà nhiều người nghĩ đó là lời nguyền giáng xuống loài người.


Người thầy thường khuyến khích các học trò như sau: “Biết chữ, các em sẽ không còn phải làm những việc nặng nhọc. Các em sẽ thành những quan chức sáng giá.”


Nhờ bộ luật thành văn này mà dân thành Babylon không sợ phải đối phó với những hình phạt tuỳ tiện do quan chức địa phương đặt ra nếu họ có phạm luật.


Tại Đức, sự say mê văn hoá Hy - La hàm chứa trong âm nhạc. Sau khi nhạc sĩ Bach và Handel qua đời, phức điệu hoa mỹ đã nhường chỗ cho sự giản dị, thanh thoát, cân đối và chừng mực. Mozard, Haydn, Gluck và Beethoven viết những bản nhạc dành cho một loại nhạc cụ nào đó trình tấu cùng với dàn nhạc đệm. Trong thời kì này có sự xuất hiện của piano, dàn nhạc giao hưởng hiện đại và thể loại sonata đã chuẩn mực hoá. Âm nhạc của thời kỳ này có ảnh hưởng sâu đậm đến mức nhạc hoà tấu trang trọng hiện nay cũng được gọi là “nhạc cổ điển” (classical music).


Thương nhân Đông Á mang các loại gia vị như quế, xa trục thảo, nhục đậu khấu và gừng tới cho dân châu Âu. Những gia vị này được dùng để làm hương liệu, thuốc chữa bệnh, thuốc tăng lực và dầu thơm. Ấn Độ buôn bán hạt tiêu, ngọc trai, dầu mè, vải dệt, san hô và ngà voi. Các nước Trung Á đem ngựa và bích ngọc đến trao đổi với Trung Quốc. Thương nhân Địa Trung Hải thì buôn bán len, vàng, bạc, đá quý, đồ pha lê, dầu ô liu và rượu.


Vị hoàng đế mới của Mông Cổ là Mangu cũng không màng gì đến vấn đề cải đạo theo Thiên Chúa giáo. Ông nói với Rubrouck là Thượng Đế tạo nên bàn tay có ngón dài ngón ngắn nên ngài cũng tạo nhiều tín ngưỡng cho các dân tộc khác nhau.


Bệnh dịch hạch hoành hành ở Trung Quốc làm giảm nửa số dân Trung Quốc thời bấy giờ.


Năm 1763, vị chỉ huy người Anh tên là Jeffray Amherst đã ra lệnh phân phát chăn mền và khăn tay của nạn nhân chết vì bệnh đậu mùa cho người Da Đỏ bản xứ để “tận diệt tộc người nghèo hèn này đi.” Gần 95% số dân bản địa châu Mỹ chết vì bệnh của người châu Âu.


Tuy nhiên, cũng phải nói thêm là Gutenberg có phần may mắn như bao nhà phát minh khác. Bảng chữ cái của ngôn ngữ châu Âu có 20 mẫu tự đơn giản nên in dễ hơn nhiều so với loại ngôn ngữ tượng hình của châu Á.


Đầu thế kỷ 17, khoảng 400K người châu Phi bị đưa đi làm nô lệ ở Tân Thế Giới; 1/6 số đó chết trên đường qua Đại Tây Dương.


Trong lịch sử, chế độ nô lệ không chút liên quan tới màu da. Những nô lệ được trả tự do không bị rẻ rúng hoặc khinh khi, vì ngoại hình của họ không có gì nói lên rằng họ từng là nô lệ. Ở La Mã, nhiều người sinh ra là nô lệ nhưng rồi được tự do và vẫn thành đạt hoặc giàu có khi trưởng thành.


Tuy nhiên, sau khi giành độc lập từ tay người Anh, các nhà soạn thảo hiến pháp nhận thấy cần một người tựa như là một vị vua được bầu lên theo hiến pháp để điều hành chính quyền. Họ lập ra chức tổng thống có quyền hành lớn đến độ một số người công kích chức vụ này là con đường dẫn đến sự chuyên quyền.


Sự khác biệt giữa Cách mạng Mỹ và Cách mạng Pháp là Pháp không có gì tương tự như truyền thống nghị viện Anh. Năm 1789, khi ngân khố thâm thủng trầm trọng và xung đột xã hội ngày càng tăng, đẩy nước Pháp vào khủng hoảng, vua Louis XVI khôi phục Hội nghị các đẳng cấp. Trước đây, giai cấp tăng lữ và quý tộc chủ trì đại hội, nhưng trong cuộc khủng hoảng này, giai cấp thứ ba (bình dân) tham dự đông hơn và thống lĩnh đại hội.


Một nhân tố dẫn đến tình trạng bất ổn ở Trung Đông sau tự tiêu vong của đế chế Hittites là công nghệ chế tác đồ sắt. Trước đó, công cụ và khí giới mạnh nhất đều làm bằng đồng thau, hợp kim của đồng và thiếc, vốn rất hiếm và đắt tiền. Chỉ có những đại vương quốc giàu có mới đủ khả năng trang bị cho binh lính nón, kiếm, và giáo bằng đồng thau.


Khiêm tốn là đức tính không hề có nơi các vua chúa vùng Lưỡng Hà. Nhiều quân vương cho người khắc những lời huyên hoang về các cuộc chinh phục của họ vào đài tưởng niệm, họ giành hết công trạng trong những chiến thắng do binh tướng họ tạo nên.


Sau khi tìm kiếm sự giải thoát tâm linh bằng lối sống khắc kỷ như Mahavira nhưng không đạt được sở nguyện, Ngài chọn cách trung dung, theo đó hành vi tốt kết hợp với sự tiết độ mọi sự. Sau cùng, Ngài đạt được trạng thái gọi là ngộ, thoát khỏi mọi dục vọng nơi trần thế.


Hơn hai thế kỉ, nhà Chu dường như hưởng lộc của Trời, vương quốc bành trướng từ phía Bắc sông Hoàng Hà đến tận phía Nam sông Dương Tử. Tuy nhiên về cơ cấu chính trị, nhà Chu kế thừa nhà Thương nên các chư hầu nắm giữ nhiều quyền thế và thái ấp, một số chư hầu còn có nhiều đất đai hơn nhà vua.


Các vua Đông Chu không còn quyền hành nhiều với các nước chư hầu. Khi đất nước rơi vào tình trạng cát cứ, dân chúng mong mỏi sự xuất hiện của bậc minh quân, người sẽ cai trị Trung Quốc một cách công minh theo đúng sứ mệnh thiên tử (con của Trời). Triết thuyết này của Khổng Tử đã được vận dụng bởi nhiều vua chúa đầy tham vọng của Trung Quốc và các mưu sĩ của họ, những người đã tái thống nhất và đưa Trung Quốc thành đại vương quốc.


Tuy nhiên, khi các bộ tộc du mục thôn tính được các xứ sở văn minh, họ quay ra tận hưởng thành quả của lối sống văn minh.


Chúng ta xem một người đàn ông không quan tâm đến chính sự không phải là người vô hại mà là người vô dụng.


Tự hào về quá khứ và hiện tại, dân Athens trở nên say mê với thuật hùng biện, kiến trúc, điêu khắc, kịch nghệ và thể hình. Lời nói khôn ngoan được xem như chiếc xe đưa tới thành công.


Vào đầu thế kỷ 2, dân số Trung Quốc khoảng 60 triệu người.


Ở đáy xã hội là nô tỳ, nhưng nô tỳ ở Trung Quốc không giống như nô lệ ở Hy Lạp và La Mã. Thực ra, họ là những đầy tớ giúp việc nhà, hầu hạ hoặc múa hát giúp vui cho gia chủ. Thành phần này rất ít, chừng 1% dân số, và thường là con cái của những gia đình nghèo bị đem bán do cha mẹ mang công mắc nợ, hoặc là trẻ bị bắt cóc, trẻ mồ côi.

Một điểm đặc biệt nữa nơi xã hội tôn ti trật tự của Trung Quốc là ai cũng có thể vươn lên tầng lớp cao hơn, trong lịch sử Trung Quốc, nhiều quan tể tướng xuất thân từ những gia đình bần hàn, hoặc các hoàng hậu được chọn từ những cung phi, hầu thiếp.


Trong quá trình tham thiền nhập định, Đức Phật nhận ra rằng cái khổ trong kiếp nhân sinh là do dục, tức là ham muốn thú vui thể xác. Để diệt dục, con người phải thực hành Bát Chính Đạo.

Niết bàn là trạng thái thanh khiết và tự do nội tại. Con người chứng đắc niết bàn bằng sự chiêm nghiệm và lối sống từ bi, hỉ xả.


Vua Ashoka là một trong số những tín đồ Phật giáo rất sùng đạo, ông mong mỏi tìm cách thoát khỏi khổ đau, dằn vặt trong cuộc sống và ông không mãn nguyện với đạo Bà La Môn, tôn giáo dạy rằng sự giải thoát thông qua trí tuệ chỉ dành cho thiểu số được chọn lọc.


Theo tiếng Hy Lạp, chữ “Jesus” hàm nghĩa là “Christos”, Đấng Christ (Đấng được xức dầu) nên tôn giáo này mang tên là Christianity.


Những cánh đồng bạc màu ở bán đảo Yucatan biến thành rừng rậm, xoá sạch các phế tích thành trì của người Maya.


Muhammad ibn Musa al-Khwarazmi, một học giả thế kỷ 9, là người đầu tiên viết về đại số (algebra — đại số — là một từ Ả Rập), và tên ông được dùng đặt cho thuật ngữ “algorithm.”


Suốt 3 thế kỷ, Trung Quốc trải qua cuộc nội chiến ác liệt giữa các thế lực cát cứ, Nho giáo không còn phù hợp với nhu cầu tâm linh của người dân Trung Quốc. Một tôn giáo từ Ấn Độ du nhập đã lấp vào khoảng trống tín ngưỡng này: Phật giáo.


Những kẻ cướp người Viking vô hình trung làm kẻ thù của họ mạnh lên do bị đẩy vào thế phải kết hợp lực lượng để chống trả. Khi bành trướng ra nhiều nơi, người Viking lập các trại quân, điều này làm họ mất tính cơ động và yếu tố bất ngờ trong đánh phá.


Trong nền văn hoá đô thị có tính năng động cao, các địa chủ châu Âu nhận thấy thuê lao động công nhật sẽ lợi hơn nhiều so với nuôi ăn nông dân và gia đình đông người của họ. Chế độ phong kiến bắt đầu lụi tàn sau vài thế kỷ tồn tại.


Thời đại này, châu Âu vẫn còn trong giai đoạn trì trệ, nhưng Trung Quốc đã là đại cường quốc của thế giới và nền văn hoá của họ xán lạn nhất thế giới.

Chính sự thịnh vượng, chính sách hướng nội và không chú trọng quân sự của nhà Tống đã đưa vương triều này đến chỗ suy vong.


Hàng trăm năm trước, Giáo hội là người trợ cấp và bảo trợ các ngành nghệ thuật của châu Âu. Do đó, mọi học thuật và nghệ thuật đều thể hiện các chủ đề tôn giáo.


Dưới triều đại Nguyên-Mông, dân số Trung Quốc giảm 40%, chỉ còn không tới 60 triệu người.


Sự trỗi dậy mạnh mẽ của Nho giáo dưới triều Minh đã củng cố niềm tin vào sự thượng đẳng của người Trung Quốc. Dân châu Âu bị xem là các rợ tộc, những cái mới lạ của họ không thể sánh với những thành tựu và cách sống quý phái của người Trung Quốc.


Sự biệt lập của Tử Cấm Thành đem lại cả điều lợi lẫn điều hại; người ngoài không được vào trong, nhưng các vị hoàng đế cũng chẳng hay biết gì về tình hình bên ngoài dân chúng.


Columbus đã thoả thuận với vua Ferdinand và hoàng hậu Isabella rằng ông sẽ là thống đốc ở những xứ ông khám phá được và thu 10% tài sản của các nơi đó. Những khoản thưởng tương tự đã thu hút các nhà chinh phục đổ xô tới Tân Thế giới.


Tuy nhiên, đế quốc Mogul của Babur chưa bao giờ ổn định, và ông không toại nguyện ở Ấn Độ. “Ấn Độ là xứ sở không có gì vui lạ.”


Trong lúc châu Âu đang phát triển mạnh vào thời Phục hưng và thời Cải cách tôn giáo, các thuộc địa đang lớn mạnh ở châu Mỹ; Trung Quốc và Nhật Bản đang trải qua thời hoàng kim văn hoá, thì Nga vẫn biệt lập trong hàng rào của các nước láng giềng, và hầu như bị thế giới bên ngoài quên lãng.


Khi Ivan Hung Bạo ban phát thái ấp cho thuộc hạ, những nông dân tự do canh tác trên phần đất đó nhận thấy bị ràng buộc vào các chúa đất do nợ nần. Thậm chí khi họ rơi vào tình cảnh phải dùng sự phục dịch của mình để trả nợ, triều đình lại giảm bớt quyền của họ và trao nhiều quyền hơn cho chúa đất. Rốt cuộc, những người một thời là nông dân tự do nay trở thành một phần trong tài sản của chúa đất, vị thế của họ lại mang tính kế truyền, và họ chẳng khác gì nô lệ. Ước tính vào thập niên 1800, một nửa trong số 40 triệu nông dân Nga là nông nô, và điều kiện sống của họ còn tồi tệ hơn cha ông họ thời Trung đại.


Thành công trong nhiều lĩnh vực, nhưng Peter Đại đế lại độc đoán và nhẫn tâm với giai cấp lao động, giống như tiền nhân của ông.


Ekaterina luôn tỏ ra quan tâm đến nông nô, nhưng trên thực tế bà lại làm cho cuộc sống của họ khốn khổ hơn và đã thẳng tay đè bẹp một cuộc nổi dậy của nông dân. Bà tuyên bố nhiều kế hoạch cải thiện giáo dục, nhưng những trường mới xây chỉ dành cho con cái của giới quý tộc.


Người Maori nhanh chóng thành thạo cách sử dụng súng của người Anh và dùng gậy ông đập lưng ông. Nhưng có một loại vũ khí mà tộc người Maori không chống nổi, đó là dịch bệnh của dân châu Âu.


Mặc dù có sự hỗ trợ của Pháp, dân Mỹ vẫn phải đối mặt với tình trạng khốn đốn và sự tuyển quân gặp rất nhiều chống đối. Thay vì tăng thuế, điều mà dân Mỹ căm ghét, Hội nghị toàn lục địa phát hành tiền giấy để trả lương cho binh lính và đáp ứng những nhu cầu khác, nhưng việc này đã gây ra lạm phát.


Hình thức Hợp bang lỏng lẻo này phản ánh mục đích của cuộc cách mạng Mỹ, họ lo ngại chính quyền trung ương nhiều quyền lực sẽ dẫn tới độc tài chuyên chế. Tuy nhiên, quốc gia này nhanh chóng nhận thấy cần có sự lãnh đạo mạnh để tồn tại và hưng thịnh. Chiến thắng quân Anh đã mở ra một miền đất mênh mông, chỉ chính quyền liên bang mới có thể quản lý vùng đất đó và bảo vệ cư dân một cách tối ưu. Các bang đều gặp phải khó khăn như nhau do phải giải quyết những khoản nợ quốc gia khi tiến hành chiến tranh giành độc lập. Phần đông dân chúng cảm thấy cần có một chính quyền liên bang nhiều quyền lực hơn.


Nếu vua Pháp khôn ngoan và nhạy bén với tình hình đất nước, có lẽ ông đã giải quyết được một số vấn nạn này. Nhưng vua Louis XVI không phải là con người như vậy, ông mê săn bán hơn là điều hành một vương quốc đang lúc nguy khốn. Các quan trong triều lại khuyên nhà vua đừng lo gì về nguy cơ cách mạng, và khi tình hình nghiêm trọng hơn, Marie Antoinette, vợ của Louis, cũng khuyên ông tránh thoả hiệp.


Bên cạnh vấn đề xã hội là một núi nợ nần. Sau cuộc chiến 7 năm qua tốn kém và đóng góp cho Cách mạng Mỹ, nước Pháp khánh kiệt. Bộ trưởng tài chính của vua Louis đưa ra bản tường trình về tình hình tài chính nhưng khéo léo bỏ qua những phần chi phí cho chiến tranh.


Nếu đức độ là mùa xuân của chính quyền nhân dân trong thời bình, thì mùa xuân của chính quyền trong thời cách mạng là đức độ kết hợp với khủng bố. Không có đức độ, khủng bố chỉ mang tính huỷ diệt; không có khủng bố, đức độ trở nên bất lực. Khủng bố chỉ là công lý được thực thi ngay lập tức, nghiêm khắc, và không khoan nhượng.


Mỉa mai thay, sự điên cuồng xâm chiếm thuộc địa lên tới đỉnh cao thì nguy cơ và chi phí của chủ nghĩa đế quốc cũng tăng cao, một số đế quốc không còn thiết tha đến việc khai thác thuộc địa. Đối với Anh, chủ nghĩa đế quốc mất đi hào quang của nó khi binh lính Anh chị tổn thất nặng nề trong cuộc chiến với người Boer.


Ông thiết lập hệ thống giáo dục đại chúng và cải cách chế độ thuế. Nhưng ông gạt bỏ những lý tưởng dân chủ khác, kể cả quyền tự do ngôn luận và hình thức chính quyền đại biểu. Napoleon kiểm soát báo chí, bắt giam các đối thủ chính trị, nắm quyền lập pháp, và không biện giải gì về việc khôi phục chế độ vương trị. “Ta thấy vượng miện của nước Pháp nằm trên mặt đất và ta đã nhặt nó lên bằng kiếm của ta.”


Xưởng làm lúc đó thường là toà nhà ngập tràn nỗi kinh hoàng về thể chất, tinh thần, và kinh tế. Tiền lương không đáng kể, nên muốn sống được, mọi thành viên trong gia đình, bất luận lớn nhỏ, đều phải đi làm. Giờ làm việc lại không được quy định cụ thể. Năm 1833, Nghị viện Anh ban hành luật cấm các chủ nhà máy buộc công nhân dưới 18 tuổi làm việc hơn 10h/ngày. Hồi đó, trẻ em làm việc 12h/ngày.


Sự đô thị hoá ở Anh đã cải thiện nền kinh tế của nước này. Quá trình này đã đưa người lao động từ những miền năng lực sản xuất thấp tới các nhà máy năng suất cao. Tuy nhiên, đối với từng cá nhân, việc chuyển đến đô thị sinh sống cũng tựa như chơi vé số: một số ít tạo được cuộc sống sung túc, nhưng đa số ngày càng kiệt quệ về mọi mặt.


Sự giàu có như thế đã đẩy nhà Arkwright lên đỉnh tầng lớp trung lưu mới. Họ sống giống như giới quý tộc địa chủ, vốn luôn ở thượng tầng của tháp giai cấp xã hôi suốt nhiều thế kỉ. Kế bên dưới là tầng lớp các nhà công nghiệp sung túc và giới bác sĩ, luật sư. Tiếp đó là giới trung lưu cấp thấp gồm nhân viên văn phòng, giáo viên, và công chức. Trên đỉnh của tầng lớp hạ lưu là các quản đốc, công nhân có tay nghề cao, và quản gia của các gia đình trọc phú. Kế đó là giới thợ có tay nghề trung bình, họ là những người làm việc cật lực để nuôi sống gia đình. Đáy của tháp giai cấp là những thợ thuyền không có tay nghề chuyên môn.


Đạo Luật Xí Nghiệp được thông qua năm 1853, quy định ngày làm việc 12h cho cả nam lẫn nữ, trong đó có nửa giờ giải lao.


Vì các nhà tư bản không khi nào tự nguyện nhượng tài sản của họ, nên công nhân phải dùng vũ lực để giành lấy nhà máy, xí nghiệp. Sự việc này đã xảy ra trong cuộc cách mạng Nga năm 1905.

Không biến cố nào tương tự xảy ra tại Anh, nơi giai cấp công nhân vẫn hoài niệm về thời trước, khi nhà của họ là trung tâm chế tác, và phản kháng ý niệm mới hình thành từ cuộc cách mạng công nghiệp, xưởng làm việc là trung tâm của cuộc sống. Rất ít người tìm cách thay đổi số phận hoặc vượt lên chính mình. Họ vẫn sống nghèo nàn trong những căn nhà tồi tàn, không công ăn việc làm, và trở thành nạn nhân của dịch bệnh.


Xuất thân từ một già đình giàu có và nhiều đặc quyền, Bolivar du học ở châu Âu và chịu nhiều ảnh hưởng của các triết gia nhu Rousseau, người viết những tác phẩm thôi thúc phe cộng hoà ở Pháp và người dân ở các xứ khác đứng lên chống lại vương quyền.


Sinh ra ở Argentina nhưng San Martin sống và lớn lên tại Tây Ban Nha, nơi ông trở thành một sĩ quan xuất sắc. Năm 1812, ông trở về Argentina và trao trọn cuộc đời mình cho những nhà cách mạng. Cũng giống như Bolivar, ông là một người Creole quay lại chống đất nước của tổ tiên để giành tự do cho mảnh đất nơi ông được sinh ra.


Trên đỉnh cao quyền lực, Bolivar ngày càng trở nên chuyên chế và chống lại mọi nỗ lực hạn chế các quyền hiến định của ông.


Bolivar không phải Washington, người có thể an tâm rời khỏi cương vị tổng thống sau 2 nhiệm kỳ, với sự tin tưởng nền cộng hoà mà ông góp công tạo dựng sẽ tồn tại và cường thịnh theo tinh thần của Hiến pháp Hoa Kỳ.


Nhưng Bolivar khác với con người cơ hội chủ nghĩa Napoleon, ông ra sức gia tăng quyền lực cá nhân không những để thoả mãn khát vọng quyền lực của mình, mà còn để giữ các nước yếu mà ông đã giải phóng khỏi rơi vào tình trạng hỗn độn và lại lệ thuộc về chính trị hoặc kinh tế vào các nước mạnh.


Khi hầu hết dân Cherokee không chấp thuận hiệp ước mới trưng thu lãnh thổ của họ ở bang Georgia, Jackson đã điều binh lính liên bang đến đuổi họ đi. Hàng ngàn dân Cherokee đã chết trước khi tới Lãnh Thổ Dân Da Đổ trên cuộc hành trình được ghi lại là Trail of Tears.


Nhiều người Mỹ khác đang thâm nhập vùng California của Mexico bằng đường bộ và đường biển. Các nhà bành trướng lãnh thổ lập luận rằng: “Số mệnh đã định” của đất nước Hoa Kỳ là thống lĩnh toàn lục địa này từ Đại Tây Dương đến Thái Bình Dương, bất chấp tuyên bố chủ quyền lãnh thổ Mexico.


Mặc dù là đối thủ truyền kiếp của nhau, nhưng Anh và Pháp đều theo chính thể quân chủ lập hiến, điều này khiến cả hai không lập được quan hệ mật thiết với các quân vương chuyên chế ở Áo, Phổ, và Nga khiến uy lực của khối liên minh do Metternich chủ xướng suy giảm.


Đối với người Trung Quốc, cuộc chiến này và hậu quả của nó đã đánh thức họ thoát khỏi sự tự mãn sai lầm. Trung Quốc không còn là đối thủ ngang tầm của các cường quốc công nghiệp châu Âu. Tàu chiến của Anh dễ dàng phá huỷ các cứ điểm phòng thủ lâu đời của Trung quốc, phong toả rồi chiếm luôn vài cảng, kể cả Thượng Hải. Sau này, cuộc Chiến Tranh Nha Phiến lần 2 đã khiến Trung Quốc mang thêm nhiều nỗi nhục nhã ê chề.


Là một nước nhỏ và tương đối nghèo, Nhật không đem lại nhiều thuận lợi cho việc buôn bán như Ấn Độ hoặc Trung Quốc, nên trong nhiều năm, các nước phương Tây không nhòm ngó gì đến đất nước này. Về phần mình, Nhật vẫn áp dụng chính sách cô lập, không niềm nở đối với những tàu thuyền vãng lai hoặc tàu thuyền bị hư hỏng của nước ngoài dạt đến.


NATO chẳng khi nào xung độ với Khối Warsaw, vì thực chất của hiệp ước này là duy trì cho Liên Xô quyền tự do lấn áp theo ý muốn tại các nước bên kai bức màn sắt, điển hình là tại Hungary.


12 năm sau, Gandhi ra đời. Ông học rất giỏi và sang Anh du học ngành luật năm 19 tuổi. Sau khi ra trường, ông làm tư vấn pháp luật cho một doanh nhân Ấn và làm việc tại Natal, Nam Phi. Hơn 20 năm sống nơi đây, Gandhi hình thành quan điểm đấu tranh bất bạo động khi ông chống đối sự kì thị di dân châu Á.


Một số học giả mô tả tình trạng phát triển kinh tế hiện thời là hình thức chủ nghĩa thực dân mới. Theo quan điểm này, các tập đoàn đa quốc gia đã thế chỗ cho chính quyền đế quốc. Sau khi đặt chân vào những nước nghèo, các công ty thực dân chủ nghĩa mới sẽ uốn nắn những nước này theo yêu cầu của họ, rồi đem lợi nhuận về trụ sở trung ương đặt ở nước khác. Điều này từng xảy ra tương tự trong những thập niên khi chính quyền thực dân còn quản trị thuộc địa.


Nghèo túng cũng là gánh nặng đối với các nước đang phát triển. Ngoài việc hạn chế khả năng đem lại lương thực, sự chăm sóc y tế, và nền giáo dục đầy đủ cho mọi người dân, sự nghèo túng còn làm sinh suất tăng cao, và hệ quả là có thêm nhiều người cần chăm sóc.


Các nước phát triển dùng biện pháp trợ cấp để nông dân của họ có thể bán nông sản trên thị trường với giá cả cạnh tranh. Nếu không được trợ giá, nhiều nông dân không đủ khả năng tài chính để tiếp tục làm nông nghiệp; họ sẽ chuyển đến sống ở thành phố vốn thiểu công ăn việc làm, trường học, hệ thống vệ sinh, cùng nhiều điều kiện khác về cơ sở hạ tầng để hỗ trợ sự gia tăng dân số. Tuy nhiên, những nước kém phát triển nhận thấy sự trợ cấp nông nghiệp như thế là trở ngại cho việc xuất khẩu nông sản của họ. Sự xuất khẩu này là cơ hội tốt nhất của họ để có tiền kiến thiết, phát triển, và thu hẹp khoảng cách thu nhập giữa họ với các quốc gia phát triển.


Nghèo đói không hẳn là nguyên nhân, vì những không tặc khủng bố 11/9 đều xuất thân từ gia đình trung lưu.