Người mình hồi trẻ nên học tinh thần của Do Thái, hồi già nên học tinh thần của Ấn Độ.


Từ sau thế chiến đến nay, cường quốc nào cũng đua nhau chế tạo vũ khí cho thật nhiều, thật tinh xảo, có sức tàn phá mỗi ngày một khủng khiếp. Năm nào cũng có những phát minh mới, thành thử vũ khí nào tối tân nhất cũng chỉ ít năm hoá ra cổ lỗ. Vậy thì hằng núi vũ khí cũ họ dùng vào đâu? Có liệng xuống biển không, có phá huỷ không, hay tìm cách “tiêu thụ,” mà tiêu thụ ở đâu, có ở trên đất họ không?


Lâu lâu trên báo ta lại được đọc những lời tuyên bố lạ lùng: nhiều nước lo hoà bình mà vãn hồi ở 1 nước khác thì kinh tế nước mình sẽ nguy; nuôi 1 người lính còn đỡ tốn hơn 1 người thợ thất nghiệp; nước họ lâm chiến mà không muốn cho tướng của mình thắng trận, cung cấp cho đồng minh của mình toàn những khí giới cổ lỗ.


Có lãnh tụ tài ba, đức hạnh thì dân tộc nào cũng biết đoàn kết, thiếu lãnh tụ tài ba, đức hạnh thì dân tộc nào cũng tan rã.


Dân biểu được bầu trong một hạn là 4 năm, nhưng Quốc hội muốn tự giải tán để bầu lại lúc nào cũng được. Quốc hội bầu Tổng thống. Tổng thống được ủy quyền trong 5 năm.


Từ trước tới nay chưa có đảng nào chiếm già nửa số ghế trong Quốc hội, nên vài đảng cần liên kết với nhau để ủng hộ các nội các và các nội các đều vững.


Chỉ trừ có Zanzibar còn nước nào trên thế giới cũng có Do Thái hồi hương về Israel. Họ thuộc đủ các nền văn minh, nói đủ các ngôn ngữ, có đủ các tập quán phong tục, vậy mà cùng họp nhau ở Israel, làm sao hiểu nhau, tránh hết mọi xích mích; chính quyền làm sao kiếm công ăn việc làm cho họ, hướng dẫn, giáo dục họ để mau thành một dân tộc thống nhất có một ngôn ngữ chung, một chí hướng chung, một pháp luật chung.


Từ ba ngàn năm nay, dân Do Thái ở Yemen sống ở Ả Rập, cách biệt hẳn với thế giới bên ngoài, vẫn giữ đúng phong tục tổ tiên, vẫn học tiếng Hebrew, không biết máy in là cái gì, phải chép tay Thánh kinh để dạy lẫn nhau. Khi nhà cầm quyền Yemen ra lệnh bắt trẻ Do Thái mồ côi để bắt chúng cải giáo, bỏ đạo Do Thái mà theo đạo Hồi, thì người Do Thái nào biết mình sắp chết, cũng lập tức cho gả cưới con, dù chúng chỉ mới vài ba tháng, để chúng thành gia thất, thành “người”, không phải là trẻ mồ côi, mà khỏi bị nhà câm quyền Ả Rập bắt.


Người ta phải moi trong Thánh kinh một câu hay vài chữ nào, xuyên tạc ý nghĩa đi rồi giảng cho họ rằng trong Thánh kinh đã có dạy phải chích thuốc, họ mới chịu để cho chích.


Số người Do Thái ở Israel hiện nay vào khoảng hai triệu rưỡi mà tổng số Do Thái trên thế giới vào khoảng hai chục triệu: non mười triệu ở Hoa Kì và Canada, phần lớn đại phú, giúp đỡ cho đồng bào của họ ở Israel được rất nhiều, về phương diện tài chính cũng như về phương diện ngoại giao vì họ có địa vị cao trong các nước đó.


Chính quyền Israel tuy tuyên bố tôn trọng tự do tín ngưỡng nhưng Do Thái giáo vẫn là quốc giáo, và luật pháp vẫn không dám trái ngược với những điều dạy trong Thánh kinh; ngày thứ bảy, ngày Sabbat, vẫn là ngày thiêng liêng, mọi công việc phải ngừng.


Không thể nào vui vẻ sống chung với nhau được nếu bên này không chịu quên vài đoạn trong Cựu Ước, bên kia vài câu trong Koran.


Người ta nhận thấy rằng nhờ có họ mà tinh thần trong quân đội cao lên: thấy họ can đảm và tận tụy, không một nam binh nào dám lơ là với phận sự; nam binh hóa ra chăm học hơn, ăn nói nhã nhặn hơn.


Không những vậy mỗi khi thao diễn ở nơi nào, người ta cũng phát cho quân đội những tập nho nhỏ về địa lí, lịch sử, phong tục, cả về cổ sử, về những kế hoạch khai thác miền nữa. Chính các cấp chỉ huy, những lúc nghỉ trong khi hành quân, cũng thường giảng giải cho quân lính về tất cả các điều cần biết về mỗi miền. Tối, người ta chiếu phim, tập hát, kể chuyện cổ tích. Có hiểu quê hương, người ta mới yêu quê hương. Có biết rõ miền nào, người ta chiến đấu mới đắc lực ở miền đó.


Muốn chế tạo một tấn giấy phải dùng 100 thước khối nước; muốn sản xuất một tấn sắt, theo phương pháp hiện nay, phải dùng 300 thước khối nước. Muốn sản xuất bất kì một vật gì cũng cần nước. Cho nên vấn để nước là vấn đề nhà cầm quyền Israel phải giải quyết trước hết.


Nếu bất đắc dĩ phải có hồ ao chứa nước thì họ đổ một chút dầu (một loại dầu riêng) thành một lớp mỏng trên mặt nước, dầu không bay hơi như nước và che được lớp nước ở dưới. Họ không dùng hồ nuôi cá; cá biển có dư rồi, nước hồ, ao dùng để tưới cây.


Trong canh nông họ nghiên cứu xem mỗi loại cây cần một số nước tối thiểu là bao nhiêu, và sẽ không dùng quá mức đó. Họ còn tìm cách dùng lại nước trong ống cống các thành phố, sau khi lọc và khử trùng.


Người phương lây có tinh thần quá khích nhất, tuy rất trọng môn lí luận mà lạ thay, hành động lại thường phi lí nhất, có những mộng tưởng phi lí nhất. Trong cuốn Au pays de lutopie, tác giả mà tôi quên mất tên, chịu tìm tòi trong không biết bao nhiêu sách, thu thập được cả trăm cái mộng kiến tạo xã hội của các triết gia, văn nhân phương Tây từ Thượng cổ tới nay, mỗi xã hội một khác nhưng xã hội nào cũng hoàn toàn bình đẳng, hoàn toàn tự do, hoàn toàn an lạc, vĩnh viễn không có chiến tranh…, mà tác giả cho là utopia: không tưởng.


Trong kibboutz cũng có giai cấp: “giới” hội viên kì cựu và “giới” hội viên mới vô. Lại có “giới” chỉ huy nữa vì mặc dầu nguyên tắc là phải thay phiên nhau, nhưng người có tài, công tâm thường được mọi người giữ lại.


Không thể bắt cả mấy triệu dân đều là anh hùng hết, anh hùng suốt mấy thế hệ, anh hùng một cách vĩnh viễn được. Cái đó không hợp tình hợp lí. Anh hùng tính nhất định là đáng quý, nhưng chỉ quý vì nó tạo hạnh phúc cho mọi người, khi nó không cần thiết cho hạnh phúc nữa thì nó hết nhiệm vụ.


Chả trách các quốc gia chậm tiến châu Phi đều hướng cả về Israel để rút kinh nghiệm mà cũng để tìm một niềm tin, như hồi xưa các nước phương Đông chúng ta hướng về Nhật Bản. Dĩ nhiên, Israel không bỏ lỡ cơ hội đó để gây uy thế và tình cảm.


Họ bảo ta rằng những cuộc tàn sát bằng những phát minh mới nhất của khoa học, dù có hệ thống, có tổ chức, rùng rợn đến mức nào đi nữa cũng không thể diệt được một dân tộc nếu dân tộc đó không tự diệt mình mà cương quyết muốn sống. Càng gian nan, cực khổ, tủi nhục thì tinh thần ta càng được tôi luyện. Càng bị đẩy vào chỗ chết thì ta càng mau kiếm được lối sống. Cửa sinh ở ngay trên con đường cửa tử.


Càng ti tiếu người ta lại càng giữ thế diện, càng nghèo người ta càng hoa hòe.


Golda Meir bảo Ả Rập “vẫn chưa học được bài học tháng 6-1967”. Thực ra chính vì họ đã học được bài học ấy, nên không dùng chiến tranh đại quy mô nữa mà dùng chiến tranh tiêu hao: họ nghĩ rằng nhân số của họ gấp ba chục lần Do Thái, vậy Do Thái chết một mà họ có chết mười chăng nữa, họ vẫn còn “thắng lợi”.


Israël không thực tâm muốn hòa bình: họ biết Ả Rập không làm gì được họ, mà càng chiếm đất đai Ả Rập được lâu thì càng có lợi cho họ khi điều đình thực sự.


Lời dưới đây của bà Golda Meir tóm tắt được chính sách diều hâu đó: “Tôi không muốn một dân tộc Do Thái hiền lành, không thực dân và phản chiến. Như vậy là một dân tộc chết”.


Người Do Thái trong non hai ngàn năm đoàn kết với nhau không phải vì có chung một dòng máu vì như tôi đã nói, họ lai nhiều quá rồi; mà vì có chung một thân phận, thân phận bị hiếp đáp, bị khinh rẻ, bị ngược đãi, tàn sát, không ở đầu được yên. Vì bị chung thân phận tủi nhục đó nên họ cố bảo tồn tôn giáo, truyền thống của họ; Do Thái giáo chỉ là thứ keo đoàn kết họ với nhau chứ không phải nguyên nhân của sự đoàn kết.


Có luật thiên nhiên này mà theo tôi, đúng ít nhất là 70%. Hễ bị đặt vào tử lộ thì người ta tìm được sinh lộ, ngược lai quá ham sinh lộ thì người ta sẽ tiến dần đến tử lộ.


Pháp ngay từ mấy ngày đầu đã đứng về phe Ả Rập, bảo “Khi người ta - tức Ả Rập - trở về nhà của người ta thì không bảo là xâm lăng được”. Anh mới đầu lừng khừng vì muốn đóng vai ngư ông trục lợi, nhưng sau cũng ngả về Ả Rập, vì sợ Ả Rập không cung cấp dầu lửa cho nữa. Các nước khác ở Tây Âu trừ Hà Lan đều mong Do Thái trả lại đất đã chiếm cho Ả Rập để kết thúc chiến tranh. Rốt cuộc Do Thái chỉ được mỗi một quốc gia là Hoa Kỳ triệt để ủng hộ (Hà Lan không đáng kế); lẽ ấy dễ hiểu: chiến tranh Tây Á là chiến tranh giữa Nga, Mỹ; Mỹ có rất nhiều quyền lợi ở miền đó, nhất là ở Ả Rập Xê-út; lại thêm đa số bọn tài phiệt ở New York có ảnh hưởng lớn tới chính trị, kinh tế Mỹ, là gốc Do Thái.


Mỹ và Nga đều ồ ạt gởi khí giới tiếp tế cho đàn em. Nga dùng cầu không vận, cứ sáu phút có một chuyến để trút vũ khí xuống Ai Cập và Syrie, mỗi ngày tới 800 tấn, lợi hại nhất là hỏa tiễn SAM 6 để hạ phi cơ và SAM 7 để hạ chiến xa, không kể vô số phi cơ Mig-21. Mỹ chừng cứ 5 phút cho một phi cơ chở xe tăng GM60, trọng pháo, đạn “bò cạp”, hỏa tiễn Sidewinder và Saprrow cho Do Thái để giữ thế cân bằng lực lượng.


Ai Cập đã thắng lợi trong tuần lễ đầu, nhưng rồi bỏ mất một dịp tốt để tiêu diệt tất cả hệ thống phòng thủ của Do Thái trong khu vực Sinai. Có thể tại họ không biết khai thác lợi thế mà cũng có thể tại họ không có đủ hỏa tiễn. Thế của họ đã kém khi Do Thái thọc được vào sâu trong nội địa của họ, nhưng họ chưa đến nỗi nguy, vì Do Thái không đủ sức chiếm cả Ai Cập lẫn Syrie, mà chiến tranh càng kéo dài thì càng bất lợi cho Do Thái. Vì vậy có người đã bảo hai bên tuy chém giết nhau rất hăng mà vẫn mong có người đứng ra hòa giải. Ả Rập đã rửa được cái nhục năm 1967 mà Do Thái cũng đã gỡ được sự thua thiệt trong tuần lễ đầu.


Vì vậy, các nước kỹ nghệ một mặt gấp rút tìm thêm mỏ dầu lửa, một mặt “o bế” các nước Ả Rập (Nhật Bản lo ngại nhất, nên đã bỏ thái độ trung lập lúc đầu, từ bỏ ông bạn Mỹ, mà tuyên bố yêu cầu Do Thái phải trả hết đất đã chiếm, để mong Ả Rập Xê-út bán dầu cho); mặt khác họ tìm cách chế tạo những xe hơi chạy bằng khinh khí hay than, và xây cất thêm những nhà máy nguyên tử năng lượng.

Và gần khắp thế giới ai cũng mong Do Thái mau mau nhường Ả Rập để mình khỏi bị hạn chế về dầu lửa mà đời sống được bình thường trở lại.


Cả Mỹ lẫn Nga đều nhờ những phi cơ khổng lồ cứ năm, bảy phút lại cất cánh một chiếc để tiếp vũ khí cho Do Thái và Ai Cập; nếu không thì hai bên không thể đánh nhau quá ba ngày được.