Người mình hồi trẻ nên học tinh thần của Do Thái, hồi già nên học tinh thần của Ấn Độ.


Từ sau thế chiến đến nay, cường quốc nào cũng đua nhau chế tạo vũ khí cho thật nhiều, thật tinh xảo, có sức tàn phá mỗi ngày một khủng khiếp. Năm nào cũng có những phát minh mới, thành thử vũ khí nào tối tân nhất cũng chỉ ít năm hoá ra cổ lỗ. Vậy thì hằng núi vũ khí cũ họ dùng vào đâu? Có liệng xuống biển không, có phá huỷ không, hay tìm cách “tiêu thụ,” mà tiêu thụ ở đâu, có ở trên đất họ không?


Lâu lâu trên báo ta lại được đọc những lời tuyên bố lạ lùng: nhiều nước lo hoà bình mà vãn hồi ở 1 nước khác thì kinh tế nước mình sẽ nguy; nuôi 1 người lính còn đỡ tốn hơn 1 người thợ thất nghiệp; nước họ lâm chiến mà không muốn cho tướng của mình thắng trận, cung cấp cho đồng minh của mình toàn những khí giới cổ lỗ.


Có lãnh tụ tài ba, đức hạnh thì dân tộc nào cũng biết đoàn kết, thiếu lãnh tụ tài ba, đức hạnh thì dân tộc nào cũng tan rã.


Dân biểu được bầu trong một hạn là 4 năm, nhưng Quốc hội muốn tự giải tán để bầu lại lúc nào cũng được. Quốc hội bầu Tổng thống. Tổng thống được ủy quyền trong 5 năm.


Từ trước tới nay chưa có đảng nào chiếm già nửa số ghế trong Quốc hội, nên vài đảng cần liên kết với nhau để ủng hộ các nội các và các nội các đều vững.


Chỉ trừ có Zanzibar còn nước nào trên thế giới cũng có Do Thái hồi hương về Israel. Họ thuộc đủ các nền văn minh, nói đủ các ngôn ngữ, có đủ các tập quán phong tục, vậy mà cùng họp nhau ở Israel, làm sao hiểu nhau, tránh hết mọi xích mích; chính quyền làm sao kiếm công ăn việc làm cho họ, hướng dẫn, giáo dục họ để mau thành một dân tộc thống nhất có một ngôn ngữ chung, một chí hướng chung, một pháp luật chung.


Từ ba ngàn năm nay, dân Do Thái ở Yemen sống ở Ả Rập, cách biệt hẳn với thế giới bên ngoài, vẫn giữ đúng phong tục tổ tiên, vẫn học tiếng Hebrew, không biết máy in là cái gì, phải chép tay Thánh kinh để dạy lẫn nhau. Khi nhà cầm quyền Yemen ra lệnh bắt trẻ Do Thái mồ côi để bắt chúng cải giáo, bỏ đạo Do Thái mà theo đạo Hồi, thì người Do Thái nào biết mình sắp chết, cũng lập tức cho gả cưới con, dù chúng chỉ mới vài ba tháng, để chúng thành gia thất, thành “người”, không phải là trẻ mồ côi, mà khỏi bị nhà câm quyền Ả Rập bắt.


Người ta phải moi trong Thánh kinh một câu hay vài chữ nào, xuyên tạc ý nghĩa đi rồi giảng cho họ rằng trong Thánh kinh đã có dạy phải chích thuốc, họ mới chịu để cho chích.


Số người Do Thái ở Israel hiện nay vào khoảng hai triệu rưỡi mà tổng số Do Thái trên thế giới vào khoảng hai chục triệu: non mười triệu ở Hoa Kì và Canada, phần lớn đại phú, giúp đỡ cho đồng bào của họ ở Israel được rất nhiều, về phương diện tài chính cũng như về phương diện ngoại giao vì họ có địa vị cao trong các nước đó.


Chính quyền Israel tuy tuyên bố tôn trọng tự do tín ngưỡng nhưng Do Thái giáo vẫn là quốc giáo, và luật pháp vẫn không dám trái ngược với những điều dạy trong Thánh kinh; ngày thứ bảy, ngày Sabbat, vẫn là ngày thiêng liêng, mọi công việc phải ngừng.


Không thể nào vui vẻ sống chung với nhau được nếu bên này không chịu quên vài đoạn trong Cựu Ước, bên kia vài câu trong Koran.


Người ta nhận thấy rằng nhờ có họ mà tinh thần trong quân đội cao lên: thấy họ can đảm và tận tụy, không một nam binh nào dám lơ là với phận sự; nam binh hóa ra chăm học hơn, ăn nói nhã nhặn hơn.


Không những vậy mỗi khi thao diễn ở nơi nào, người ta cũng phát cho quân đội những tập nho nhỏ về địa lí, lịch sử, phong tục, cả về cổ sử, về những kế hoạch khai thác miền nữa. Chính các cấp chỉ huy, những lúc nghỉ trong khi hành quân, cũng thường giảng giải cho quân lính về tất cả các điều cần biết về mỗi miền. Tối, người ta chiếu phim, tập hát, kể chuyện cổ tích. Có hiểu quê hương, người ta mới yêu quê hương. Có biết rõ miền nào, người ta chiến đấu mới đắc lực ở miền đó.


Muốn chế tạo một tấn giấy phải dùng 100 thước khối nước; muốn sản xuất một tấn sắt, theo phương pháp hiện nay, phải dùng 300 thước khối nước. Muốn sản xuất bất kì một vật gì cũng cần nước. Cho nên vấn để nước là vấn đề nhà cầm quyền Israel phải giải quyết trước hết.


Nếu bất đắc dĩ phải có hồ ao chứa nước thì họ đổ một chút dầu (một loại dầu riêng) thành một lớp mỏng trên mặt nước, dầu không bay hơi như nước và che được lớp nước ở dưới. Họ không dùng hồ nuôi cá; cá biển có dư rồi, nước hồ, ao dùng để tưới cây.


Trong canh nông họ nghiên cứu xem mỗi loại cây cần một số nước tối thiểu là bao nhiêu, và sẽ không dùng quá mức đó. Họ còn tìm cách dùng lại nước trong ống cống các thành phố, sau khi lọc và khử trùng.


Người phương lây có tinh thần quá khích nhất, tuy rất trọng môn lí luận mà lạ thay, hành động lại thường phi lí nhất, có những mộng tưởng phi lí nhất. Trong cuốn Au pays de lutopie, tác giả mà tôi quên mất tên, chịu tìm tòi trong không biết bao nhiêu sách, thu thập được cả trăm cái mộng kiến tạo xã hội của các triết gia, văn nhân phương Tây từ Thượng cổ tới nay, mỗi xã hội một khác nhưng xã hội nào cũng hoàn toàn bình đẳng, hoàn toàn tự do, hoàn toàn an lạc, vĩnh viễn không có chiến tranh…, mà tác giả cho là utopia: không tưởng.


Trong kibboutz cũng có giai cấp: “giới” hội viên kì cựu và “giới” hội viên mới vô. Lại có “giới” chỉ huy nữa vì mặc dầu nguyên tắc là phải thay phiên nhau, nhưng người có tài, công tâm thường được mọi người giữ lại.


Không thể bắt cả mấy triệu dân đều là anh hùng hết, anh hùng suốt mấy thế hệ, anh hùng một cách vĩnh viễn được. Cái đó không hợp tình hợp lí. Anh hùng tính nhất định là đáng quý, nhưng chỉ quý vì nó tạo hạnh phúc cho mọi người, khi nó không cần thiết cho hạnh phúc nữa thì nó hết nhiệm vụ.


Chả trách các quốc gia chậm tiến châu Phi đều hướng cả về Israel để rút kinh nghiệm mà cũng để tìm một niềm tin, như hồi xưa các nước phương Đông chúng ta hướng về Nhật Bản. Dĩ nhiên, Israel không bỏ lỡ cơ hội đó để gây uy thế và tình cảm.


Họ bảo ta rằng những cuộc tàn sát bằng những phát minh mới nhất của khoa học, dù có hệ thống, có tổ chức, rùng rợn đến mức nào đi nữa cũng không thể diệt được một dân tộc nếu dân tộc đó không tự diệt mình mà cương quyết muốn sống. Càng gian nan, cực khổ, tủi nhục thì tinh thần ta càng được tôi luyện. Càng bị đẩy vào chỗ chết thì ta càng mau kiếm được lối sống. Cửa sinh ở ngay trên con đường cửa tử.


Càng ti tiếu người ta lại càng giữ thế diện, càng nghèo người ta càng hoa hòe.


Golda Meir bảo Ả Rập “vẫn chưa học được bài học tháng 6-1967”. Thực ra chính vì họ đã học được bài học ấy, nên không dùng chiến tranh đại quy mô nữa mà dùng chiến tranh tiêu hao: họ nghĩ rằng nhân số của họ gấp ba chục lần Do Thái, vậy Do Thái chết một mà họ có chết mười chăng nữa, họ vẫn còn “thắng lợi”.


Israël không thực tâm muốn hòa bình: họ biết Ả Rập không làm gì được họ, mà càng chiếm đất đai Ả Rập được lâu thì càng có lợi cho họ khi điều đình thực sự.


Lời dưới đây của bà Golda Meir tóm tắt được chính sách diều hâu đó: “Tôi không muốn một dân tộc Do Thái hiền lành, không thực dân và phản chiến. Như vậy là một dân tộc chết”.


Người Do Thái trong non hai ngàn năm đoàn kết với nhau không phải vì có chung một dòng máu vì như tôi đã nói, họ lai nhiều quá rồi; mà vì có chung một thân phận, thân phận bị hiếp đáp, bị khinh rẻ, bị ngược đãi, tàn sát, không ở đầu được yên. Vì bị chung thân phận tủi nhục đó nên họ cố bảo tồn tôn giáo, truyền thống của họ; Do Thái giáo chỉ là thứ keo đoàn kết họ với nhau chứ không phải nguyên nhân của sự đoàn kết.


Có luật thiên nhiên này mà theo tôi, đúng ít nhất là 70%. Hễ bị đặt vào tử lộ thì người ta tìm được sinh lộ, ngược lai quá ham sinh lộ thì người ta sẽ tiến dần đến tử lộ.


Pháp ngay từ mấy ngày đầu đã đứng về phe Ả Rập, bảo “Khi người ta - tức Ả Rập - trở về nhà của người ta thì không bảo là xâm lăng được”. Anh mới đầu lừng khừng vì muốn đóng vai ngư ông trục lợi, nhưng sau cũng ngả về Ả Rập, vì sợ Ả Rập không cung cấp dầu lửa cho nữa. Các nước khác ở Tây Âu trừ Hà Lan đều mong Do Thái trả lại đất đã chiếm cho Ả Rập để kết thúc chiến tranh. Rốt cuộc Do Thái chỉ được mỗi một quốc gia là Hoa Kỳ triệt để ủng hộ (Hà Lan không đáng kế); lẽ ấy dễ hiểu: chiến tranh Tây Á là chiến tranh giữa Nga, Mỹ; Mỹ có rất nhiều quyền lợi ở miền đó, nhất là ở Ả Rập Xê-út; lại thêm đa số bọn tài phiệt ở New York có ảnh hưởng lớn tới chính trị, kinh tế Mỹ, là gốc Do Thái.


Mỹ và Nga đều ồ ạt gởi khí giới tiếp tế cho đàn em. Nga dùng cầu không vận, cứ sáu phút có một chuyến để trút vũ khí xuống Ai Cập và Syrie, mỗi ngày tới 800 tấn, lợi hại nhất là hỏa tiễn SAM 6 để hạ phi cơ và SAM 7 để hạ chiến xa, không kể vô số phi cơ Mig-21. Mỹ chừng cứ 5 phút cho một phi cơ chở xe tăng GM60, trọng pháo, đạn “bò cạp”, hỏa tiễn Sidewinder và Saprrow cho Do Thái để giữ thế cân bằng lực lượng.


Ai Cập đã thắng lợi trong tuần lễ đầu, nhưng rồi bỏ mất một dịp tốt để tiêu diệt tất cả hệ thống phòng thủ của Do Thái trong khu vực Sinai. Có thể tại họ không biết khai thác lợi thế mà cũng có thể tại họ không có đủ hỏa tiễn. Thế của họ đã kém khi Do Thái thọc được vào sâu trong nội địa của họ, nhưng họ chưa đến nỗi nguy, vì Do Thái không đủ sức chiếm cả Ai Cập lẫn Syrie, mà chiến tranh càng kéo dài thì càng bất lợi cho Do Thái. Vì vậy có người đã bảo hai bên tuy chém giết nhau rất hăng mà vẫn mong có người đứng ra hòa giải. Ả Rập đã rửa được cái nhục năm 1967 mà Do Thái cũng đã gỡ được sự thua thiệt trong tuần lễ đầu.


Vì vậy, các nước kỹ nghệ một mặt gấp rút tìm thêm mỏ dầu lửa, một mặt “o bế” các nước Ả Rập (Nhật Bản lo ngại nhất, nên đã bỏ thái độ trung lập lúc đầu, từ bỏ ông bạn Mỹ, mà tuyên bố yêu cầu Do Thái phải trả hết đất đã chiếm, để mong Ả Rập Xê-út bán dầu cho); mặt khác họ tìm cách chế tạo những xe hơi chạy bằng khinh khí hay than, và xây cất thêm những nhà máy nguyên tử năng lượng.

Và gần khắp thế giới ai cũng mong Do Thái mau mau nhường Ả Rập để mình khỏi bị hạn chế về dầu lửa mà đời sống được bình thường trở lại.


Cả Mỹ lẫn Nga đều nhờ những phi cơ khổng lồ cứ năm, bảy phút lại cất cánh một chiếc để tiếp vũ khí cho Do Thái và Ai Cập; nếu không thì hai bên không thể đánh nhau quá ba ngày được.


Vì có những chuyện như vậy xảy ra mà người Do Thái ở châu Âu mặc dầu được pháp luật che chở, vẫn cảm thấy không được yên ổn. Càng bị khinh bỉ, hất hủi, cố nhiên họ càng đoàn kết với nhau, gia nhập mỏi ngày một nhiều vào những đoàn thể nào không kì thị họ, mà những đoàn thể này phần nhiều là những đoàn thể cấp tiến, thiên tả. Thế là người ta lại có thêm một cớ nữa để thù oán họ. Người ta bảo họ là tụi cách mạng, tụi phiến loạn vong ân bội nghĩa, muốn chống lại những quốc gia bao dung họ, tóm lại là một thứ ong độc trong tay áo.


Tôi có cảm tưởng rằng người phương Tây có tinh thần, tôi gần như muốn nói là cái “máu” kì thị màu đa và tôn giáo. Chỉ ở Âu châu, chúng ta mới thấy những chiến tranh tôn giáo dai dẳng và kinh khủng nhất trong lịch sử nhân loại; và chỉ ở Mĩ cũng là gốc Âu nữa, chúng ta mới thấy những vụ tàn sát da đỏ và da đen nối tiếp nhau trong hằng thế kỉ. Người phương Đông chúng ta cũng vẫn thường chém giết nhau vì quyền lợi, vì danh dự, đôi khi cũng vì tín ngưỡng, nhưng cơn giận xong rồi thì thôi, Việt Nam, Trung Hoa, Nhật Bản hay Triều Tiên… lại vui sống chung với nhau, buôn bán với nhau, gả con gả cháu cho nhau, nhậu nhẹt với nhau, làm thơ tặng nhau, có bao giờ mà thù nhau truyền kiếp như đa số người theo Ki Tô giáo đối với những người theo Do Thái giáo hoặc đa số người Mĩ da trắng đối với những người Mĩ da đen.


Người ta dựng lên một thuyết kì dị rằng dân tộc giết Chúa đó sẽ đời đời kiếp kiếp bị một hình phạt rất nặng là lang thang hoài trên thế giới để chuộc tội.


Người văn minh thì thời nào cũng rất ít, và đa số chỉ có cái bề ngoài là văn minh; họ hoảng sợ khi nghĩ tới chuyện giết người, hiếp dâm, nhưng rồi chính họ, nếu gặp cơ hội thỏa mãn thú tính của họ mà không bị trừng trị thì sẽ không do dự gì cả, thẳng tay làm hại người đồng loại bằng mọi phương tiện tàn nhẫn, bỉ ổi.


Israel, tức Palestine, thành một xứ trong mộng, một Thiên đường trong óc họ: “Một kẻ ngu dốt mà ở Israel thì cũng có tài đức hơn một vị Đại tư lễ sống ở ngoài Israel”. “Kẻ nào chỉ mới đặt chân lên Israel thì chết cũng được lên Thiên đường”.


Về nhà ông đâm ra suy nghĩ: “Dân tộc Pháp là dân tộc có tinh thần rộng rãi nhất, biết trọng tự do và bình đẳng nhất; tư tưởng cách mạng đã thấm nhuần họ trên trăm năm rồi kể từ cái hồi họ phá ngục Bastille, vậy mà còn kì thị, bài xích Do Thái đến mức đó, thì còn mong gì ở các nước khác nữa? Nông nỗi này thì thảm kịch Do Thái quả là bất tuyệt, vô phương giảm được. Dân tộc Do Thái còn bị nguyền rủa, xua đuổi, oán thù đến lúc tận thế thôi! Trừ phi là… lật ngược lại vấn đề, không xin đồng hóa với các dân tộc khác nữa, không ở nhờ một quốc gia nào nữa, họ có thực tâm cho mình đồng hóa đâu mà tạo lấy một quốc gia Do Thái được vạn quốc thừa nhận.”


Trục xuất không được, vì đất đã bán rồi, họ đổ hết cả lỗi lên đầu người Anh. Chỉ tại người Anh cho “tụi quỷ” đó vô Palestine. Bộ thuộc địa của Anh không mong gì hơn là Do Thái và Ả Rập xích mích với nhau để họ làm trọng tài và dễ cai trị. Họ hứa sẽ làm thỏa mãn cả hai bên.


Trong số các danh nhân Âu, Mĩ, nhiều nhà gốc Do Thái: về khoa học có Freud, Einstein, Hertz; về triết học có Spinoza, Heine, Bergson; về văn học có Anatole France, Marcel Proust, Kafka, Stefan Zweig, André Maurois; về chính trị có Disraeli, Léon Blum, Mendès-France. Karl Marx và Trotsky đều là Do Thái.


Tôi nghĩ rằng tỉ số cả danh nhân Do Thái không cao hơn tỉ số các danh nhân Đức, Anh, Pháp… Sở dĩ người ta có cảm tưởng rằng dân tộc Do Thái thông minh chỉ vì hễ có một danh nhân Do Thái thì ai cũng để ý tới liền.


Một dân tộc ăn nhờ ở đậu, không có tổ quốc mà lại thành công, chiếm những địa vị cao sang, ở nước nào cũng ảnh hưởng tới nội trị, ngoại giao nước đó thì nhất định là người ta không ưa. Người ta mỉa mai, chua chát tự hỏi: “Ủa! Sao bảo tổ tiên họ giết Chúa thì họ sẽ phải trả tội cho tổ tiên mà bị làm nô lệ, nếu không thì cũng tủi nhục ngóc đầu lên không nổi. Thế này thì ý chí của Thượng Đế không thực hiện à?”


Một người Hồi giáo giết một người Do Thái thì chỉ phải đền cho thân nhân người bị giết 140 kraus, rồi được tự do; người Do Thái tuyệt nhiên không được chống án.


Người ta cấm họ có bất động sản, thành thử muốn theo nghề nồng thì họ chỉ có thể làm nông nô, làm tá điển. Muốn khá giả họ phải ở thành phố làm thợ, nhất là thợ kim hoàn, hoặc buôn bán, đổi tiền, cho vay. Giáo hội Ki Tô cấm tín đồ cho vay lấy lãi nên nghề sét ti, nghề ngân hàng gần như thành độc quyền của họ. Cha truyền con nối, nhờ kinh nghiệm của những thế hệ trước, họ làm giàu rất mau, chính vì giàu mà gây nhiều kẻ thù

Người ta bắt họ phải sống trong những khu biệt lập gọi là ghetto, ban đêm không được ra khỏi khu.


Người ta bắt họ đóng thuế cực nặng, vắt họ như vắt bò sữa, có khi tịch thu tài sản rồi đuổi họ ra khỏi cõi, thời nào cũng vậy, chứ không phải chỉ trong thời Đức quốc xã, thế chiến vừa rồi. Tình cảnh đó bất công đến nỗi một người trong Công giáo đã phải thốt ra câu này: “Nếu chỉ cần ghét tụi Do Thái cũng đủ là một người Công giáo ngoan đạo thì hết thảy chúng ta đều là những Công giáo ngoan đạo”.


Năm 1096 người ta rủ nhau đi giải thoát mộ của Chúa Ki Tô, và còn có gì hữu lí bằng trước khi làm việc thiêng liêng đó, phải trả thù những kẻ mà non 1100 năm trước đã chịu trách nhiệm về cái chết của Chúa, đã giết Chúa.

Ở Worms trong hai ngày người ta giết tám trăm người Do Thái; bất kể là đàn ông hay đàn bà, già trẻ, hễ là Do Thái mà không chịu theo đạo Ki Tô là bị chém giết bằng gươm, bằng giáo, bằng thuổng, cuốc…


Cuối năm 1944, Đức Quốc xã biết trước thế nào cũng thua Đồng Minh, càng hoảng hốt, giết cho thật nhiều Do Thái, nhất là hạng Do Thái có học thức, sợ họ mà sống sót thì sẽ trả thù.


Nhưng xét cho cùng bọn Hitler không thể bỗng dưng dựng lên thuyết chủng tộc để diệt Do Thái nếu tinh thần bài xích, kì thị Do Thái không có sẵn trong lòng một số đông dân chúng ở châu Âu, nhất là ở Ba Lan và Nga.


Đã cả chục đời lập nghiệp ở xứ người, không lễ một lúc mà bỏ hết sản nghiệp lại, lên đường về Sion, cho nên mặc dầu năm nào cũng chúc nhau “sang năm về Sion”, mà trong non hai ngàn năm người ta vẫn không dự định một kế hoạch thực tế nào để về Sion. Những khi bị tàn sát, hành hung, một số phẫn uất dắt vợ con về Sion, nhưng số đó rất hiếm, và một khi họ đi rồi thì gần như bặt tin, kẻ chết giữa đường, không tới nơi, kẻ tới nơi thì cũng khốn đốn và ai cũng thấy về Sion đúng là về “chầu tổ”.


Một mình đứng lên hô hào thành lập một quốc gia khi mà giang san đã vào tay người khác non hai ngàn năm rồi, khi mà đồng bào đã phiêu bạt khắp thế giới, mất cả ngôn ngữ! Mà tại sao lại xui người Do Thái Đức, Pháp, Anh… về Palestine? Về cái thẻo đất cháy khô đó để làm gì? Bỏ tất cả các ngân hàng, các hãng, xưởng, bỏ công trình nghiên cứu, công ăn việc làm ở châu Âu này à? Rồi con cái đương học ở đại học, trung học, về bên đó làm gì có trường? Khí hậu bên đó nóng như thiêu, chịu sao nổi. Đương sống yên ổn được mấy đời nay rồi, vụ Dreyfus là một vụ nhỏ, nên dìm nó đi, quên nó đi chứ sao lại đổ thêm dầu vô lửa, khơi gợi lại vấn đề kì thị chủng tộc? Người ta mỉa mai ông là ôm cái mộng xây dựng một quốc gia để được làm quốc vương, làm ngài Ngự, và khi ông vô rạp hát thì người ta chỉ trỏ nhau: “Kìa, ngài Ngự đã tới!”


Khi Đức đầu hàng, Anh, Pháp qua phần đế quốc cũ của Thổ, Anh thì cho Pháp Syrie mà chiếm lấy phần lớn ở Tây Á gồm Iraq, Transjordanie, Palestine, không kể cả chục đất “bảo hộ” khác ở chung quanh bán đảo Ả Rập.


Nhưng khi thấy người Do Thái thành công quá mà mỗi ngày mỗi đồng thêm, họ đâm ra bất bình. Trước kia họ bán những đất khô cắn cho Do Thái với giá rất đắt, tưởng rằng sau hai ba năm, khai phá thất bại, Do Thái tất nhiên phải kêu họ tới mà bán lại với một giá rẻ mạt, rồi cuốn gói đi nơi khác. Nào ngờ nông trường của họ cứ mỗi ngày một mơn mởn lên, nhà cửa, kho tàng một ngày mỗi thêm chen chúc, xe cộ lui tới mỗi ngày một dập dìu; còn mình thì số tiền bán đất tiêu hết đã lâu, hóa ra nghèo hơn họ. Lại thêm cái nỗi họ trả công cao, nông dân bỏ qua làm công cho họ, chủ điền Ả Rập mất dần quyền hành, uy tín, rất đỗi bực mình. Tụi đó là khách mà lại lấn chủ, ai mà chịu được nỗi đó.


Nhục nhã là những người Anh đã thi hành đúng cuốn Bạch Thư vì dầu lửa Ả Rập cần cho họ hơn là lòng quý mến của Do Thái, của nhân loại. Dầu lửa là “cái gần của chiến tranh” mà lúc đó Anh đương chống đỡ những đòn kinh khủng của Đức. Nhiều người Do Thái uất ức chửi họ: “Tụi Anh cũng chó má như tụi Đức, kém gì đâu!”


Chửi mạnh nhất là báo Mĩ và Pháp: Pháp vì có rất ít dầu lửa ở Ả Rập, Mĩ vì đương muốn hất chân Anh ở Ả Rập.


Tuyệt thực cũng là một cách chiến đấu. Gần sáu triệu Do Thái chết trong các phòng hơi độc mà không hiểu vì tội tình gì. Nếu ba trăm trẻ em trên tàu này phải chết thì ít nhất chúng cũng biết được chết cho ai, cho cái gì.


Anh đã hứa cho chúng tôi độc lập. Hội Quốc Liên có quyền gì mà cấm chúng tôi được tự chủ? Vậy Palestine phải là một quốc gia Á Rập độc lập. Chúng tôi hứa sẽ tôn trọng quyền lợi của những người Do Thái, phần thiểu số trong quốc gia chúng tôi.

Anh đã lỡ hứa cho cả hai bên, bây giờ không biết đáp ra sao, trút cả trách nhiệm cho Liên Hiệp Quốc, Liên Hiệp Quốc lập một ủy ban điều tra, ủy ban thứ 18 về vấn đề Palestine. Ủy ban đưa ra giải pháp: chia đôi Palestine. Sẽ có hai quốc gia ở Palestine, một của Ả Rập, một của Do Thái. Nhìn bản đồ Trung Đông, độc giả sẽ thấy ranh giới họ vẽ, chỗ ra chỗ vô, chia thành nhiều miếng đất ôm nhau, chen lấn nhau, thật kì dị.

Mặc dầu vậy, Do Thái cũng vẫn chịu vì nghĩ thà được ít còn hơn không, hãy có một khu đất để lập quốc đã. Nhưng Ả Rập không chịu, nằng nặc đuổi Do Thái đi.

Anh thấy ôm miếng đất đó chỉ thêm bỏng tay, tuyên bố rút hết quân về, để cho “hai bên lãnh trách nhiệm với nhau”. Nghĩa là Anh muốn bảo Do Thái và Ả Rập: “Cứ tha hồ mà chém giết nhau, ta bỏ mặc đấy”:


Người ta hét lớn trong đài phát thanh: “Mohammed truyền: Hễ tụi dị giáo tấn công các con thì các con sẽ tắm trong máu của chúng”. Người ta phát những truyền đơn giọng thật găng và hăng: “A! Tụi Do Thái bảo Jahvé của họ là thần chiến thắng ư? Thì chúng ta sẽ cho họ thấy rằng Islam cũng là một tôn giáo biết dùng lưỡi kiếm…”


Người ta biết rằng không thể trông cậy gì ở Anh được: Anh đã hoàn toàn tỏ ra bất lực, không giữ được trật tự, lại còn ngầm giúp Ả Rập nữa; mà cũng không thể trông cậy ở Liên Hiệp Quốc vì sự can thiệp của Liên Hiệp Quốc bao giờ cũng chậm trẻ và yếu ớt. Vả lại chính Anh cũng không chịu giúp Liên Hiệp Quốc phương tiện để hoạt động; họ ngâm mong rằng Do Thái sẽ lâm nguy, lúc đó lại phải nhờ cậy họ. Và trong khi chờ đợi, họ khoanh tay ngó.


Năm 1966, tủ sách của ông đã có hai chục ngàn cuốn, đủ các loại từ chính trị tới văn chương, triết học, sử học. Ông đọc cả sách về Phật học và có lần vào ở trong một chùa Phật gần Rangoon để đọc kinh Phật nữa. Suốt đời ông vận động, hoạt động cho dân tộc, quốc gia Do Thái, thì giờ đâu mà ông đọc được bấy nhiêu sách?


Riêng quân Ai Cập kém xa quân đội Israel về mọi phương diện. Quân số đã ít, khí giới lại thiếu. Trong thế chiến thứ hai, đồng bào ông bị thực dân Anh nghi kị, không cho sử dụng các vũ khí mới, không cho ra mặt trận, nên thiếu kinh nghiệm, nhất là thiếu tổ chức. Tấn công một làng mà không có bản đồ làng đó, không có xe thiết giáp để mở đường trước, thành thử lính Ả Rập càng dũng cảm thì càng chết nhiều. Thiếu xe để chở họ. Thức ăn cũng thiếu. Người ta phát cho mỗi đại đội một số tiền (1000 bảng Anh) để mặc cho đại đội trưởng mua tại chỗ ô liu và pho mát cho quân lính. Tình trạng đó của quân đội Ai Cập có lẽ cũng là tình trạng chung của liên quân Ả Rập.


Họ thường nhắc nhau lời Chúa hứa với Abraham trong Thánh Kinh: “Ta ban cho con cháu ngươi dải đất nằm từ sông Ai Cập (tức sông Nil) tới sông Euphrate” và họ hi vọng mở mang bờ cõi từ núi Taurus (ở Tiểu Á) tới kênh Suez, nghĩa là nuốt trọn xứ Syrie, xứ Liban, xứ Jordanie, một phần xứ Iraq, xứ Ả Rập Xê-út và xứ Ai Cập. Mới có quốc gia mà đã đòi làm thực dân.


Nguyên nhân thứ tư là tinh thần quốc gia mới Ả Rập. Sau mấy thế kỉ bị Thổ đô hộ, tinh thần quốc gia của dân tộc xuống rất thấp, họ bị thao túng, không vùng vẫy lên được, nhẫn nhục chịu cảnh đàn áp của Thổ.


Sau bao nhiêu thể kỉ bị ngoại thuộc, lần này là lần đầu tiên các dân tộc Ả Rập có dịp tổ mặt với thế giới mà đành nuốt hận một cách nhục nhã như vậy thì làm sao còn dám tự hào là dòng dõi của Chéops, của Ramsès, của Mohammed được nữa. Và từ đó Nasser bỏ tinh thần quốc gia cũ hẹp hòi, nuôi một tinh thần quốc gia mới, tức tinh thần Á Rập. Không có các dân tộc Ai Cập, Iraq, Syrie, Transjordanie… mà chỉ có mỗi một dân tộc Ả Rập thôi. Phải đoàn kết nhau lại thành một khối Ả Rập thì mới mạnh được. Sự đại bại năm 1949 là một cái may cho khối Ả Rập. Nhờ nó mà họ mới phẫn uất, chịu suy nghĩ và tìm cách phục hưng.


Lẽ thứ ba là bán đảo Ả Rập có tới 50% dầu lửa trên thế giới, mà dầu lửa là nhiên liệu quan trọng nhất ở thời này. Không những sản xuất đã mạnh mà phí tổn lại rất thấp, chỉ bằng một phần tám phí tổn ở Hoa Kì.


Có kể bảo Ai Cập quá nghèo, không có cách nào khác phú cường được, dù có khuếch trương kĩ nghệ, cải thiện nông nghiệp thì cũng chỉ đủ bù vào sự gia tăng dân số, cho nên Nasser phải “thôn tính” các quốc gia Ả Rập khác để chia cái nguồn lợi dầu lửa của họ, và muốn thôn tính thì phải lập được một công lớn gì cho toàn khối Ả Rập, công đó chỉ có thể là diệt Do Thái.


Lúc đó (1955) Ai Cập muốn nhờ Mĩ cung cấp khí giời. Mĩ ngại Ai Cập diệt được Israel, thống nhất được khối Ả Rập thì những giếng dầu của Mĩ ở bán đảo Ả Rập sẽ khó giữ được, cho nên chần chừ, đưa ra những điều kiện khó khăn cho Nasser. Nasser đành quay về phía Nga. Nga từ trước vẫn muốn hất chân Anh, Mĩ ra khỏi Ả Rập, nên vui vẻ nhận lời.


Số tiền lời của kênh Suez nam 1955 là 100 triệu Mĩ kim, mà Ai Cập chỉ được hưởng có 3 triệu; quốc hữu hóa rồi, Ai Cập hưởng hết số tiên, sẽ xây được đập Aswan mà dân Ai Cập sẽ khỏi bị chết đói.


Lúc đó Pháp mới hoảng. Chính phủ Pháp tuyên bố với dân chúng rằng số xăng dầu dự trữ trong nước đủ dùng trong bốn tháng mà sự thực chỉ đủ dùng có nửa tháng. Kênh Suez đã bít ba bốn ngày rồi, không một quốc gia Ả Rập nào chịu bán xăng cho Anh, Pháp nữa. Chỉ còn mười ngày nữa là hết xăng; các nhà máy, xưởng hãng, xe hơi, phi cơ lấy gì mà chạy? Thợ thuyền sẽ thất nghiệp hết, kinh tế Pháp sụp đổ. Nếu Mĩ mà không giúp thì chết chắc chắn. Lúc này mới thấy xăng là máu của quốc gia và vì nó mà mình phải lệ thuộc Mĩ nhiều quá.


Moshe Dayan lên giữ bộ Quốc phòng để tỏ ý chí chiến đấu và đoàn kết lòng dân, chứ không thay đổi chiến lược hay chiến thuật. Mọi việc đã chuẩn bị liên tục ngay sau chiến tranh năm 1956, từ sự đào tạo chiến sĩ, mua sắm khí giới, tới việc xây đồn lũy, tổ chức tình báo… Mọi cơ quan quân sự chạy trơn tru như chiếc máy ngày nào cũng được săn sóc kĩ lưỡng; cho nên mấy ngày đầu tháng sáu dân chúng có vẻ xáo động mà quân đội thì rất bình tĩnh.

Đáng khen nhất là cơ quan tình báo. Họ làm cách nào mà thu thập được mọi chi tiết về các đạo quân địch: kiểu phi cơ, phi trường, đường bay, sĩ quan nào chỉ huy, tính tình ra sao, chiến thuật ra sao, thói quen ra sao, giờ nào họ làm việc, giờ nào họ xao nhãng, chỗ nào có phi cơ thật, chỗ nào đặt phi cơ giả.


Israel âm mưu với Anh, Mĩ chiếm kênh Suez, tạo nên một tình trạng đã rồi, để Liên Hiệp Quốc có can thiệp thì cũng trễ. Ben Gourion tính trên đầu ngón tay nói với Dayan:

Phải hai ngày Ai Cập mới hiểu việc gì xảy ra. Lúc đó Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc họp gấp và ra lệnh cho hai bên ngưng chiến. Nhưng chúng ta không ngưng chiến, cứ tiếp tục tiến binh. Hội Đồng Bảo An lại họp nữa, lần này làm dữ, dọa dẫm. Và sau cùng chúng ta phải tuân lệnh. Trước khi tuân lệnh, thì chúng ta phải chiếm được trọn bán đảo Sinai. Chiếm trọn bán đảo đó từ sáu tới tám ngày. Làm nổi không?


Họ đã tính trước: phải mất một giờ, các nhà cầm quyền Ai Cập mới biết được việc gì đã xảy ra. Phải mất thêm một giờ nữa, Syrie, Iraq, Jordanie mới được Ai Cập cho biết tin tức. Họ lại mất một thời gian để quân đội chuẩn bị phát xuất nữa. Trong mấy giờ đó Israel đủ tàn phá các phi trường Ai Cập rồi mà quay trở lại tấn công không lực của ba nước kia, vì vậy họ chỉ để lại mười hai phi cơ che chở tất cả thành thi, cơ quan, đồn ải trong nước(“. Họ gan thật! Họ cả gan vì họ đã tính đúng và đã chuẩn bị kĩ lưỡng từ lâu: luôn trong mấy năm họ đã luyện cho không quân của họ ở trong tình trạng báo động suốt ngày đêm và 365 ngày một năm.

Họ chỉ tấn công phi trường, không hề tấn công nhà máy cầu cống, các mục tiêu quân sự khác, ngay tới đập Aswan mà Ai Cập lo bị phá nhất, họ cũng không dụng tới.