Sự thống trị của pháp luật được thể hiện trên 2 khía cạnh: 1) Pháp luật bảo vệ các quyền con người; 2) Pháp luật khống chế quyền lực của người cầm quyền (quyền lực của nhà nước).

Quyền lực phải bị hạn chế bởi nhiệm kỳ, bị phân chia ra thành các nhánh lập pháp, hành pháp và tư pháp, và các nhánh này phải kiểm soát lẫn nhau. Ngoài ra, quyền lực còn bị phân chia giữa các cấp chính quyền để các cấp này cũng kiểm soát lẫn nhau.


Kitô giáo đã từng có sức mạnh tương đương với nhà nước. Một người muốn lên làm vua phải được nhà thờ phê chuẩn bằng thủ tục đăng quang. Ở những nước nguồn của luật pháp chỉ là những mệnh lệnh do vua (nhà nước) ban hành thì không thể có các quy phạm khống chế quyền lực của vua. Ngoài ra, nếu có các quy phạm như vậy, mà lại không có 1 thế lực bên ngoài nhà nước đủ mạnh để áp đặt việc tuân thủ thì vẫn rất ít có ý nghĩa. Chính vì vậy, những nước có tôn giáo yếu, mà nhà nước lại rất mạnh như Nga, TQ… chưa bao giờ có nhà nước pháp quyền.

Bên cạnh khái niệm “nhà nước pháp quyền” còn có khái niệm “nhà nước pháp trị.” Đây là 2 khái niệm hoàn toàn khác nhau. Nhà nước pháp quyền là nhà nước bị pháp luật điều chỉnh (bị pháp luật cai trị). Nhà nước pháp trị là nhà nước cai trị bằng pháp luật (chứ không phải bằng mệnh lệnh nhất thời hoặc bằng tấm gương đạo đức).

Mọi tấm huy chương đều có 2 mặt, nhà nước pháp quyền theo khuôn khổ khái niệm của phương Tây cũng vậy. Một số quyền con người được đề cao và đảm bảo như quyền tự do tài sản, quyền tự do khế ước, quyền tự do kinh doanh, tự do sáng tạo… là rất quan trọng để thúc đẩy kinh tế phát triển và đạt được sự giàu có. Tuy nhiên, cũng có 1 số quyền con người nếu bị lạm dụng trong điều kiện lịch sử, văn hoá và kinh tế - xã hội chưa chính muồi lại hoàn toàn có thể tạo ra bất ổn, can qua và đổ vỡ. Kinh nghiệm của “Mùa xuân Ả Rập,” thậm chí của Ukraina gần đây cho chúng ta thấy rất rõ điều này.


Nhưng mặt khác, việc quyền lực bị phân mảng và các quyền lực phủ quyết lẫn nhau vô tận lại hoàn toàn có thể làm cho nền quản trị quốc gia trở nên bế tắc, quy trình ban hành quyết định trở nên khó khăn, tốn kém. Sự phủ quyết lẫn nhau thường xuyên giữa Tổng thống, Quốc hội và Toà án ở Mỹ cho chúng ta thấy rất rõ điều này. Đó là chưa nói tới những rủi ro về văn hoá. Đối với văn hoá người Việt chúng ta, phủ quyết nhau như vậy rất là không hay, là rất dễ dẫn đến xung đột và đổ vỡ. Ngoài ra, các nhà lý thuyết về phân quyền còn quên mất 1 điều rất quan trọng khác. Đó là các quyền con người bị xâm hại không chỉ bởi nhà nước mà còn bởi rất nhiều chủ thể khác, trong đó có cả các nhà nước ngoại bang. Một nhà nước yếu vì quyền lực bị phân chia thì nhiều khi khó có thể đứng ra bảo vệ và tạo điều kiện để các quyền con người của nhân dân trong nước được thực thi.


Mọi chuẩn mực của nhà nước pháp quyền đều cần phải được tiếp thu và áp dụng phù hợp với điều kiện lịch sử, văn hoá và kinh tế xã hội của nước ta. Kinh nghiệm cho thấy việc tiếp thu các mô hình, các chủ thuyết của nước ngoài 1 cách thiếu cân nhắc, thiếu chọn lọc là rất rủi ro.


Hiện đang xảy ra tình trạng cán bộ, công chức không dám quyết đáp, không dám thúc đẩy công việc. Bởi vì rằng, không làm thì không sao, nhưng đã làm thì thế nào cũng xảy ra vi phạm.


Càng lạm dụng điều chỉnh thì chi phí tuân thủ, chi phí áp đặt sự tuân thủ và chi phí thi hành lại càng tăng. Chỉ riêng để thực thi Luật Quy hoạch thôi, chúng ta có thể thấy những chi phí phát sinh là lớn đến vô cùng. Đã hơn 4 năm sau khi luật được ban hành, rất nhiều tiền của, sức lực đã phải bỏ ra, nhưng nhiều chính sách lập pháp trong Luật vẫn chưa thi hành được.

Để khắc phục hậu quả của sự lạm dụng điều chỉnh, trong mấy nhiệm kỳ vừa qua, CP đã phải tìm cách cắt giảm các thủ tục hành chính và các loại giấy phép. Một mặt, CP cố gắng cắt giảm các thủ tục hành chính và giấy phép nhằm cải thiện môi trường kinh doanh. Mặt khác, QH lại lên kế hoạch và thủ đẩy việc soạn thảo và ban hành pháp luật. Thủ tục, giấy phép phát sinh bởi những đạo luật cũ chưa kịp cắt giảm, thì thủ tục, giấy phép phát sinh bởi các đạo luật mới đã lại tăng lên. Có vẻ như đang có sự hiểu lầm về quyền lập pháp và chức năng lập pháp của QH. Quyền lập pháp là quyền thẩm định và thông qua luật. Về bản chất, đây là quyền kiểm soát việc ban hành pháp luật.

Cần phân định rõ chức năng của các thiết chế trong quy trình lập pháp. CP là cơ quan thúc đẩy việc ban hành pháp luật. QH là cơ quan kiểm soát việc ban hành pháp luật.


Để tránh việc lạm dụng điều chỉnh, QH các nước thường tổ chức xem xét các dự luật 1 cách rất cẩn trọng qua 3 lần thảo luận. Lần thứ nhất là về việc có thật sự cần phải ban hành 1 đạo luật như vậy hay không. 1 lần ở hạ viện và 1 lần ở thượng viện. Ngoài ra, việc ban hành pháp luật còn bị hạn chế bởi quyền tái thẩm định (judicial review) và phủ quyết của tư pháp.


Một vấn đề khác là chất lượng chưa cao của không ít văn bản quy phạm pháp luật. Điều này được khẳng định qua: 1) Giải pháp lập pháp trong nhiều đạo luật không rõ, nên việc thực thi thường khó khăn, tốn kém mà mục đích đề ra vẫn không đạt được; 2) Nhiều đạo luật mang tính nhồi nhét: có quá nhiều chính sách lập pháp trong 1 đạo luật nên rất khó thi hành; 3) Nhiều đạo luật phải sửa đổi, bổ sung thường xuyên vì thiếu thực tế; 4) Có khá nhiều sự chồng chéo, xung đột giữa các văng bản quy phạm pháp luật.


Về nguyên tắc, việc hoạch định chính sách lập pháp phải được tiến hành trước; việc soạn thảo thành văn bản luật mới được tiến hành sau. 2 công việc này là 2 loại hình lao động khác nhau do những nguồn nhân lực khác nhau đảm nhận.

Hoạch định chính sách cũng có 2 phần: phần chính trị của chính sách và phần kỹ thuật của chính sách. Chính trị do các chính khách đảm nhận; kỹ thuật do các chuyên gia đảm nhận.


Ở nước ta, trước khi đổi mới, quyền lực chính trị và quy trình chính trị được thiết kế khá mạch lạc. Cụ thể, quyền lực chính trị là quyền lực của Đảng; quy trình quản trị quốc gia là: Đảng quyết định; QH thể chế hoá; CP thực hiện.


Theo mô thức này, thì quy trình quản trị sẽ bắt đầu từ việc soạn thảo chính sách của CP; sau đó là việc thẩm định thông qua của Bộ Chính trị hoặc BCHTW; việc thể chế hoá của QH hoặc Uỷ ban Thường vụ QH; sau cùng là việc triển khai thi hành của CP. Như vậy, năng lực soạn thảo và thực thi chính sách phải nằm ở CP; năng lực thẩm định và thông qua phải nằm ở Đảng; năng lực bảo đảm sự chính danh phải nằm ở QH.


Nhất thể hoá Đảng với Nhà nước là 1 lựa chọn khác. Theo đó, quy trình quản trị sẽ như sau: Thủ tướng / Tổng thống lãnh đạo Nội các hoạch định chính sách. Nội các trình Đảng đoàn QH xem xét thông qua. Khi Đảng đoàn QH đã thông qua, thì Nội các trình QH thông qua chính thức. Công đoạn QH thông qua chỉ mang tính hình thức vì Đảng đoàn luôn chiếm đa số trong QH. Chúng ta có thể nghiên cứu kinh nghiệm của Đảng PAP Singapore hoặc Đảng Dân chủ tự do NB để tham khảo.


Nhất thể hoá cũng có những khó khăn, thách thức nhất định. Trước hết, nhất thể hoá làm tăng lên gấp bội quyền lực của Đảng, đòi hỏi cơ chế giám sát nội bộ của Đảng phải mạnh, nhằm đảm bảo các quy trình. Khi đó, cánh cửa phản biện chính sách trong quy trình quản trị chỉ còn là ý kiến của các đại biểu ngoài đảng ở trong QH. Thứ hai, nhất thể hoá ít phải sửa đổi luật lệ của Nhà nước, thì phải sửa đổi rất nhiều luật lệ của Đảng, cũng như cách thức tổ chức và hoạt động của Đảng. Với bối cảnh như vậy, thống nhất được ý kiến ở trong Đảng là điều không dễ.

Nhân đây, nhất thể hoá giữa Đảng với Nhà nước chỉ có thể triển khai được ở cấp chính trị, không phải ở cấp hành chính và chuyên môn - kỹ thuật. Đơn giản vì Đảng là thiết chế chính trị, không phải là thiết chế hành chính, cũng không phải thiết chế chuyên môn - kỹ thuật. Rủi ro lớn nhất hiện nay là: Chúng ta vẫn chưa nhất thể hoá được giữa Đảng và Nhà nước ở cấp chính trị, thì lại đang triển khai khá sâu rộng việc nhất thể hoá ở cấp hành chính và chuyên môn - kỹ thuật. Điều này đang làm cho quy trình chính trị và quy trình hành chính, quy trình chuyên môn - kỹ thuật bị lẫn lộn. Tất cả các cơ quan có liên quan đều bị quá tải.


“Trách nhiệm giải trình” hiểu đơn giản là việc NN và những người nắm quyền lực NN chịu trách nhiệm cho hành động của mình. Điều này thường đi kèm với việc tạo ra giới hạn quyền lực của NN (bởi quyền lực tuyệt đối thì tha hoá tuyệt đối) bằng cách để các cơ quan NN chịu trách nhiệm giải trình lẫn nhau (giải trình chéo / giải trình nội bộ — internal accountability), như việc QH giám sát hoạt động của CP. Đây là nền tảng của hệ thống giám sát và cân bằng, cũng như phân chia quyền lực trong bộ máy chính quyền (tam quyền phân lập) của hệ thống chính trị các nước Âu Mỹ.

Mặt khác, toàn bộ quyền lực NN phải có trách nhiệm giải trình với XH, ở đây là công dân, các tổ chức XH độc lập, doanh nghiệp, hoặc bất kỳ ai chịu ảnh hưởng bởi quyết sách NN (giải trình xã hội — external accountability). Đó có thể là người dân bị thu hồi đất, những người nộp thuế muốn biết về hiệu quả thu - chi ngân sách NN, hay đơn giản là 1 cá nhân muốn tìm hiểu thông tin về hoạt động của cơ quan công quyền.


Sự khác biệt của trách nhiệm giải trình tiền hiện đại so với NN hiện đại nằm ở pháp quyền. Ở chế độ quân chủ chuyên chế, vua nắm giữ “thiên mệnh” và hầu như có thể đưa ra mọi quyết sách theo ý muốn chủ quan của mình. Bởi vậy, giải trình — nếu có — chỉ là hành động ngẫu hứng và tuỳ nghi, thay vì bị ràng buộc bởi pháp luật. Ở đó, người đứng đầu NN và mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật.


Về khía cạnh chính trị, đáp ứng trách nhiệm giải trình hiện thực hoá tinh thần “nhân dân làm chủ,” làm tăng tính chính danh của bộ máy NN. Tuy nhiên, trách nhiệm giải trình không phải là ban ơn như câu chuyện của “thiên tử.” Việc lắng nghe và đưa ra quyết định dựa vào ý kiến của người dân giúp tạo dựng niềm tin rằng trong bất kì trường hợp nào, chính quyền cũng sẽ đặt lợi ích của người dân lên trên hết.


Hiện tại người dân có 3 cơ chế phản hồi chính khi không hài lòng với các quyết định của chính quyền:

  1. Tuần hành tập thể và biểu tình (dân chủ trực tiếp). Về nguyên tắc, đây là quyền được Hiến pháp quy định và bảo vệ qua cả 4 lần chỉnh sửa. Tuy vậy, quyền này chưa được cụ thể hoá bằng luật hay thậm chí là nghị định CP. Bởi thế, đây là kênh phản hồi chứa đựng nhiều rủi ro cho cả người dân lẫn NN, khi rơi vào vùng xám của hợp pháp và phi pháp.
  2. Nộp đơn thư khiếu nại, hoặc khởi kiện các quyết định hành chính của NN (dân chủ trực tiếp). Tuy nhiên, con đường này có lẽ còn bất trắc và khó khăn hơn so với việc xuống đường biểu tình. Số vụ khởi kiện hàng năm khoảng 5000 vụ, tỉ lệ thành công, theo nghĩa sửa đổi hay huỷ các quyết định, chỉ dưới 4%. Đáng ngại nhất là thời gian giải quyết chưa được đảm bảo: có những vụ kiện kéo dài ròng rã gần chục năm trời mới được đưa ra xét xử. Nếu may mắn nằm trong số 4% thành công, việc buộc cơ quan thua kiện thi hành án hành chính cũng không dễ dàng.
  3. Thông qua các tổ chức trung gian để nêu lên tiếng nói của mình (dân chủ đại diện). Họ có thể tiếp cận đại biểu QH của khu vực mình sống, họ cũng có thể thông qua cánh tay nối dài của Đảng là MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội để truyền tải ý kiến của mình.

VN hiện nay có hơn 880K DN đăng ký chính thức nhưng có đến 5.5M hộ kinh doanh cá thể. Ước tính quy mô nền KT ngầm của VN năm 2016 là 27% GDP (giảm từ 34% GDP giai đoạn 2010-2011).

Các DN tư nhân VN chủ yếu có quy mô nhỏ và phi chính thức, cản trở việc tăng năng suất thông qua tính hiệu quả về KT theo quy mô, chuyên môn hoá và đổi mới sáng tạo. Hiện VN có quá ít DN tư nhân trong nước có quy mô vừa và quy mô lớn, đặc biệt trong ngành công nghiệp chế tác, sản xuất. Thực tế, tỉ trọng của các DN này trong tổng số DN tiếp tục giảm.

Hàng triệu hộ kinh doanh của chúng ta hiện nay không có nhiều động lực để chuyển lên hoạt động thành doanh nghiệp vì những lo ngại về thủ tục phiền hà, rủi ro pháp lý và trình độ quản lý chưa theo kịp.


Về lâu dài, xu hướng phi chính thức, ngầm hoá của KT tư nhân VN đang cản trở việc khu vực này lớn mạnh, tăng cường tính minh bạch, nâng cao được trình độ quản trị, tiếp cận được các chuẩn mực cao trong kinh doanh và khó cạnh tranh, gia nhập chuỗi sản xuất của TG.


Tính ổn định và dự đoán được của pháp luật và việc thực thi pháp luật còn thấp. Điều này đặc biệt gây bất lợi cho các DNTN khi muốn đầu tư các dự án lớn, thời gian thu hồi vốn dài như công nghiệp chế biến chế tạo và cơ sở hạ tầng. Công tác tham vấn và truyền thông chính sách đã được cải thiện nhưng vẫn còn nhiều bất cập, nội dung văn bản pháp luật còn chưa đảm bảo tính minh bạch, nhiều điểm còn chung chung, định tính, phụ thuộc vào diễn giải tuỳ nghi của người thực hiện.


Tình trạng bảo hộ ngược đang diễn ra trên 1 số lĩnh vực KT, đặc biệt là CNTT. Theo đó, NN đặt ra nhiều quy định pháp luật nhưng lại chỉ áp dụng các quy định đó với DN trong nước mà không áp dụng đối với DN ở nước ngoài.


Ban hành Luật về Kiểm soát thủ tục hành chính, trong đó đảm bảo các nguyên tắc như sau: im lặng là đồng ý; nguyên tắc tiền lệ (các hồ sơ giống nhau phải được giải quyết như nhau); nguyên tắc đồng bộ (các cơ quan NN khác nhau cũng phải giải quyết công việc như nhau); nguyên tắc liên thông (DN không nộp lại những hồ sơ mà các cơ quan NN đã có); có cơ chế hiệu quả, an toàn để DN đánh giá, phản ánh chất lượng giải quyết thủ tục hành chính; quy định trách nhiệm kỷ luật của cán bộ chậm giải quyết thủ tục hành chính.


Mô thức chung của các cuộc khủng hoảng này là do 1 số DN và cá nhân có thể huy động vốn 1 cách dễ dàng và đầu tư vào các tài sản rủi ro, nhất là BĐS. Một số ngân hàng đã trở thành “bộ phận huy động vốn” hoặc công cụ của các DN để có nguồn vốn cho những “canh bạc” của mình. Khi dòng tiền vào không đủ để bù đắp dòng tiền phải trả dẫn đến vỡ nợ và cả XH phải gánh chịu hậu quả.

Giải pháp cho vấn đề này là NN cần quy định chặt chẽ về các yêu cầu đảm bảo an toàn trong hoạt động của các TCTC; các DN cần quan tâm và nâng cao khả năng quản lý rủi ro; người dân cần trang bị cho mình các kiến thức cần thiết về tài chính và đầu tư để tránh bị rơi vào vòng xoáy do đám đông bị chi phối tâm lý bởi lòng tham và lợi ích trước mắt.


Trong gần 4 thập niên qua, các NHTM cổ phần được sở hữu chéo bởi các DN là 1 nhân tố (chính xác hơn là thủ phạm) của các khủng hoảng theo chu kỳ.


Tình trạng vay nợ tràn lan để đầu tư vào các tài sản rủi ro đã làm 1 số NH mất khả năng thanh khoản, rơi vào tình trạng vỡ nợ mà NHNN đã chị đạo việc tiếp quản thông qua cách thức mua lại 0 đồng. Hậu quả của việc này đến nay vẫn chưa được giải quyết 1 cách triệt để và các NH 0 đồng nêu trên vẫn đang là gánh nặng của các TCTC tiếp quản chúng và cho cả nền KT.


Qua vài lần tái cấu trúc các khoản nợ thì gánh nặng lãi suất trở nên rất khủng khiếp. Tuy nhiên, không mấy ai quan tâm khi mà giá BĐS đã tăng bình quân 14%/năm từ đầu năm 2000 đến giữa 2006.


Thực ra, tất cả các loại tài sản tài chính được tạo ra nêu trên đều dựa vào những khoản vay mà về bản chất người đi vay không có khả năng trả nợ. Do vậy, những giấy nợ được chúng đảm bảo có giá trị rất thấp. Tuy nhiên, qua sự nhào nặn của các TCTC (chính xác hơn là những người điều hành hệ thống tài chính), chúng đã được biến thành hàng chất lượng cao với giá trên trời. Điều này giống như giảo thuật biến đá thành vàng. Các công cụ bảo hiểm đã biến thành công cụ bài bạc trên 1 thị trường với sự tự do cao độ cho các TCTC. Nguyên tắc không có gì là miễn phí của kinh tế học đã bị vi phạm. Người vay đã được thuyết phục rằng không cần phải lo lắng đối với các khoản vay vì theo thời gian giá BĐS sẽ lên, phần chênh lệch thu được không chỉ đủ để trả nợ mà còn có thể sắm xe hơi hay chi tiêu cho những kỳ nghỉ, điều không thể xảy ra trong thực tế.


Ở cuộc khủng hoảng lần thứ nhất này, về cơ bản những người điều hành có rất ít hiểu biết và hình dung về sự vận hành của cơ chế thị trường và sự khủng khiếp của vòng xoáy với tháp Ponzi. Lạm phát phi mã và sự sụp đổ của hệ thống tài chính là những bài học đắt giá đầu tiên của VN với kinh tế thị trường.


Những chu kỳ tăng trưởng cao theo xu hướng đi xuống và chỉ ở mức 7%/năm là 1 lý giải cho VN đã không đạt được sự thần kỳ như các nước Đông Á và chỉ có được sự thành công ở chừng mực nào đó như 1 số nước ĐNA.


Nếu các DN tận dụng tốt cơ hội mở cửa, tiếp tục tập trung vào hoạt động SXKD tạo ra sản phẩm thì kì vọng sẽ thành hiện thực. KT sẽ tăng trưởng cao hơn và giá trị chứng khoán và BĐS tăng chóng mặt nêu trên sẽ trở nên hợp lý sau 1 thời gian. Tuy nhiên, điều không may là hành vi của các DN và NĐT đã thay đổi. Nếu tiếp tục tập trung vào hoạt động dinh doanh hiện tại thì suất sinh lợi chỉ là vài chục phần trăm, trong khi đầu tư vào các tài sản (cổ phiếu và BĐS) thì con số có thể là hàng trăm, thậm chí hàng nghìn phần trăm. Khó có ai có thể cưỡng lại cám dỗ. Giá cổ phiếu và BĐS tăng là thật, và lãi là thật. Thay vì tiếp tục tập trung vào các hoạt động SXKD tạo ra của cải cho XH, nhiều người đã “nhày” vào chứng khoán và BĐS, mà nói chính xác là đi đầu cơ tài sản.


Việc kiếm tiền quá dễ dàng làm cho việc trả lương và chi tiêu trở nên hào phóng hơn. Từ những mức lương không đến nỗi nào trong lĩnh vực SXKD trước đây, nhiều người đã có được những mức lương hay thu nhập chỉ nằm mơ mới thấy. Lúc này nhiều người chỉ tập trung vào việc mua mua bán bán, chứ không còn “chí thú làm ăn” như trước đây. Những cơ hội đã không được tận dụng, trong khi rắc rối ngày 1 nhiều hơn và để lại hậu quả ngày hôm nay.


Trước khi các bong bóng tài sản nổ ra, các DN và người dân chí thú làm ăn, tận dụng được lợi thế của VN để tập trung và các hoạt động SXKD tạo ra của cải cho XH. Kết quả là các DN ăn nên làm ra, tăng trưởng KT cao và tạo tâm lý lạc quan, hồ hởi cho toàn XH. Ngược lại, khi bong bóng bắt đầu căng, nhiều DN và cá nhân đã quay sang đầu cơ tài sản, bỏ bê các hoạt động SXKD chính, dẫn đến thua lỗ và nợ xấu tăng cao.


Các chu kỳ khủng hoảng liên quan đến tài chính và BĐS ở VN thường xuyên lặp lại từ khi Đổi mới đến nay. Nguyên nhân chỉ gói gọn từ lòng tham của con người với 1 số ít có khả năng huy động được những nguồn vốn lớn đầu tư vào những tài sản có tính chất đầu cơ rủi ro cao. Trong quá trình này, sự tham gia và hưởng ứng của những người có tâm lý muốn giàu nhanh, cùng tham gia vào những hoạt động mua bán các loại tài sản đã tạo ra các chu kỳ tăng giá bong bóng của BĐS và chứng khoán. Một nguồn lực đáng kể của XH (bao gồm cả tài chính và nỗ lực) đã được dành cho những hoạt động không tạo ra giá trị mà gây rắc rối cho cả XH.


Khi có sự hiểu biết cần thiết, quyết định của các cá nhân sẽ suy lý và cẩn trọng hơn nên khả năng tránh được việc bị kéo vào các vòng xoáy của tâm lý đám đông sẽ cao hơn.


Tỷ trọng cho vay DNNVV tại các quốc gia tên thế giới có khác biệt khá lớn. Tỷ trọng này cao nhất ở HQ và TQ (trên 40%), tại Thái Lan và VN là 20%. Tại Indonesia là 10%.


Các DNNVV tiếp nhận các nguồn tài chính chính thông qua hệ thống NH và các nguồn chính thống khác chỉ chiếm khoảng 25%, còn đến 75% vẫn phải đi huy động bạn bè, vay mượn phi chính thống.


Chưa đầy 1% số DN được khảo sát đã từng phát hành cổ phiếu ra công chúng. Các DN này đều có số vốn hơn 100 tỷ — thuộc nhóm DN vừa, với thời gian hoạt động tương đối dài, từ 7 năm trở lên.


Nhóm DN này không có hoặc có rất ít TSBĐ, thông tin thiếu minh bạch, năng lực tài chính và thị trường hạn chế, thiếu phương án kinh doanh khả thi. Về phía các TCTD, cán bộ tín dụng vẫn còn e sợ trách nhiệm khi cho vay với các DNNVV do việc hình sự hoá các quan hệ tín dụng, sự phối hợp của các đơn vị trong việc thực thi các chính sách khuyến khích thúc đẩy tín dụng cho DNNVV còn gặp khó khăn.


Suốt 4K năm lịch sử, vùng đồng bằng đã tiến ra Biển Đông với tốc độ trung bình 15m/năm.


Cung ứng ổn định 58% sản lượng lúa cả nước; xuất khẩu gạo của toàn vùng chiếm 93% sản lượng cả nước.


Các nguồn tài nguyên tự nhiên, nguồn đất, nước và sinh vật vốn có của vùng đồng bằng đã có dấu hiệu suy kiệt về số lượng và ô nhiễm về chất lượng nước, đất và vi sinh vật. Quá trình khai thác sản xuất quá nhiều và liên tục tăng vụ, nguồn dinh dưỡng đất đã suy kiệt, đặc biệt là các vi lượng trong đất, trong khi nguồn bổ sung chỉ chủ yếu là đạm, lân và kali (N-P-K).


Đô thị là nơi tiêu thụ sản phẩm chủ lực từ sản xuất ở nông thôn với giá trị và dịch vụ cao nhất, ngược lại đô thị là nơi cung ứng hàng hoá, vật phẩm sinh hoạt hàng ngày cho nông dân. Đô thị cũng là nơi cung ứng các dịch vụ văn hoá, khoa học, giáo dục, pháp lý về nông thôn.


Những KCN cao được thành lập chưa phát huy tác dụng cho người Việt, phần lớn chỉ có các công ty công nghệ nước ngoài vào thuê đất.


Chúng ta không thể chỉ đi, mà phải chạy, thì mới mong rút ngắn khoảng cách được. VN đã quá trễ, và còn đang đi quá chậm so với thế giới xung quanh, đặc biệt trong giáo dục đại học và khoa học, công nghệ. Chung ta vẫn cảm thấy sống “an bình” trong cái vỏ ốc chậm chạp. Còn bao lâu nữa?


Singapore cũng miễn thuế 3 năm với tất cả các doanh nghiệp khởi nghiệp nói chung chứ không riêng gì đổi mới sáng tạo, với điều kiện doanh thu hàng năm dưới $100K. Nếu doanh số cao hơn mức này thì doanh nghiệp đóng ở mức thuế ưu đãi là 8.5%, rất cụ thể, rõ ràng.


Nhiều doanh nghiệp sáng tạo thành công trên thế giới đã mắc sai lầm lớn khi lấn sân sang các ngành mà họ không còn lợi thế cạnh tranh.


Các DNNVV trong 1 quốc gia như các phiêu sinh, các sinh vật nhỏ và vừa trong 1 dòng sông. Hệ sinh vật nhỏ ấy cộng sinh với các hệ sinh vật khác tạo môi trường tương tác sinh học để xuất hiện các loài sinh vật lớn là sản vật độc đáo của dòng sông.


Việt Nam: DNNVV hiện chiếm 96% tổng số DN, thu hút 47% lực lượng lao động, tạo ra 36% giá trị gia tăng quốc gia.

Thái Lan: 99.6% tổng số DN.

Malaysia: 97.2% tổng số DN, 48% việc làm, 38.2% giá trị.

Pháp: 99.9% tổng số DN, 48.2% việc làm, 42.8% giá trị.

Đức: 99.3% tổng số DN, 54.4% việc làm, 60.1% giá trị.


VN chưa hoá rồng sau 48 năm thống nhất trong khi thời gian để NB, HQ, ĐL hoá rồng là 20-30 năm.


Trong đại đa số trường hợp, NH chỉ cung cấp vốn thế chấp. Tuy nhiên, nhiều DNNVV không có đủ tài sản thế chấp, do đó 38% doanh nghiệp không thể vay vốn.


Nhiều DNNVV không hiểu rõ các quy định hay thủ tục cần tuân thủ. Vấn đề không chỉ ở chỗ hệ thống ấy phức tạp, mà còn ở sự rối rắm, rườm rà, có nhiều khoảng không cho sự diễn dịch khác nhau. Điều này dẫn tới nhiều việc đơn giản vẫn cần tới “cò,” và nhiều trường hợp “cò” là tay chân của thành viên bộ máy công đang giải quyết sự việc với doanh nghiệp.


Hơn 90% là DN nhỏ và siêu nhỏ, vận hành manh mún trong phần đầu của chuỗi giá trị và thiếu hiểu biết cũng như định hướng tiến hoá tiếp theo trong chuỗi giá trị đó.


Cũng vì lý do đó, rất nhiều quốc gia đã cấu trúc ngành nhượng quyền thành ngành chiến lược để phát triển kinh tế quốc gia, đặc biệt cho khối kinh tế tư nhân, và đặc biệt cho các DNNVV. Việc có thể chuyên nghiệp hoá 1 mô hình và thương hiệu, sau đó tạo khả năng tăng tốc phát triển mô hình và thương hiệu đó không những tại thị trường nội địa mà còn xuất khẩu được với giá trị cao trên toàn thế giới có thể nói là cách hiệu quả nhất để phát triển chuỗi giá trị cho DN SME quốc gia. Ngoài ra, đây cũng là cách hiệu quả nhất giúp tăng tốc phát triển các ngành nghề bản địa có tính khác biệt cao và được người tiêu dùng thế giới mong chờ, trong đó nông nghiệp, chế biến thực phẩm và ẩm thực bản địa là những ngành có thể nói là tiềm năng nhất.


VN là quốc gia xuất khẩu cà phê thứ 2 thê giới. Tuy nhiên, việc xuất khẩu hiện nay chỉ dừng ở mức xuất khẩu cà phê thô hoặc có 1 phần nhỏ rang xay, đóng gói. VN hoàn toàn chưa có năng lực xuất khẩu mô hình và thương hiệu. Ngược lại, sau khi đã xuất khẩu sản phẩm cà phê thô, VN lại nhập khâu mô hình và thương hiệu cà phê của khu vực và thế giới vào thị trường nội địa. Nghịch lý này cho thấy sự yếu kém trong năng lực cạnh tranh ở phân khúc giá trị cao của DN VN nói chung và SME nói riêng.


Năng suất lao động VN hiện còn quá thấp so với thế giới, chỉ bằng khoảng 15% so với Mỹ và NB; 35% so với Singapore, HQ, TQ.


Sau nhiều năm làm việc tại VN, và ngay cả trong cuộc sống cũng vậy, tôi nhận ra những điểm yếu quan trọng nhất ở người thợ VN không phải nằm ở chuyên môn mà ở tính kỷ luật, tinh thần trách nhiệm và thiếu tinh thần làm việc theo quy trình.


Năng suất lao động VN chỉ bằng 23% HQ, 24% NB, 33% Malaysia, 59% Thái Lan, 60% TQ, 77% Indonesia và 86.5% Philippines.


Hệ thống giáo dục VN có 8 cấp, từ Mầm non đến Tiến sĩ.


Chỉ gần 50% làm đúng ngành đào tạo, số còn lại chỉ liên quan đến ngành đào tạo là 25-30%, thậm chí không liên quan đến ngành đào tạo là 17-20%. Tỉ lệ nhỏ tự tạo việc làm.


HQ là nước có tài nguyên thiên nhiên không được ưu đãi, từ 1 nước có thu nhập thấp đầu những năm 1960 có sự tăng trưởng và phát triển ngoạn mục về kinh tế, trở thành quốc gia châu Á thứ 2 trong lịch sử có nền kinh tế đạt tới ngưỡng phát triển, chỉ sau NB. GPD danh nghĩa năm 2022 đứng thứ 10 thế giới.


Lợi thế của giai đoạn cấu trúc dân số vàng của VN chỉ còn khoảng gần 2 thập kỷ.


Khác với các cải cách áp đặt từ cam kết (và vì thế đôi khi việc thực hiện có thể chỉ dừng lại ở mức đủ để ứng phó với sự giám sát của đối tác), những cải cách dưới sức ép của bối cảnh khó khăn bản chất là cải cách tự thân, vì chính mình.


Cải cách “tự thân” có hạn chế là không có tiêu chuẩn phải theo, không có thời hạn phải hoàn thành, không có hình thức chịu trách nhiệm thay biện pháp xử lý cụ thể nào nếu thất bại (tất cả, nếu có, đều là kế hoạch chủ quan, không bị ràng buộc nào). Thiếu những áp lực bên ngoài, một số cải cách có thể bắt đầu với quyết tâm sắt đá, nhưng sau đó qua nhiều tầng nấc, cành nhánh, lại “hụt hơi” dần, hầu như không đạt được kết quả mục tiêu, hoặc cũng có kết quả nào đó nhưng lạc điệu và đơn lẻ, không đủ để cho cả tổng thể thay đổi hay cải thiện.


Cải cách “tự thân” không có 1 khuôn mẫu chuẩn mực nào, vì thế nó có thể đi đúng hướng, cũng có thể sai hướng. Năng lực nhận diện (hoặc lắng nghe và lựa chọn giữa nhiều lời khuyên) và khả năng thực thi (bao gồm cả hành động triển khai, điều hành và giám sát kết quả) là điều kiện không dễ đáp ứng. Mà nếu sai hướng, cái giá phải trả sẽ là rất lớn, không chỉ ở thời gian và chi phí.


Những năm gần đây FDI chiếm khoảng 50% sản lượng công nghiệp và 70% xuất khẩu. Tuy nhiên chất lượng của việc tham gia vào GVCs hay GSCs còn ở mức thấp và vì vậy năng suất lao động của VN không cao. VN chưa có 1 KCN năng động đóng vai trò đầu tầu đẩy nền kinh tế phát triển nhanh như kinh nghiệm của các nước đi trước ở Đông Á.


Tuỳ theo hình thái sở hữu, kinh tế VN được phân chia thành 3 khu vực: NN, ngoài NN và FDI. Năm 2019, khu vực ngoài NN chiếm tới 83.5% tổng lao động có việc làm nhưng chỉ chiếm 42.7% GDP. Hai con số này cho thấy năng suất lao động rất thấp của khu vực ngoài NN.

Khu vực ngoài NN gồm nông nghiệp và những đơn vị sản xuất, kinh doanh tư nhân trong những ngành ngoài nông nghiệp như công nghiệp và dịch vụ. Hầu hết những đơn vị sản xuất trong nhóm tư nhân là manh mún, phi chính thức, và quy mô hoạt động siêu nhỏ, nhỏ và vừa.


Nhiều đơn vị sản xuất cả thể lo ngại khả năng sẽ phải đóng thuế nhiều hơn khi trở thành DN chính thức vì thể thức kế toán hiện đại và rành mạch sẽ được áp dụng.


Các DN FDI tại VN chủ yếu đầu tư vào những ngành thâm dụng lao động nhằm khai thác lao động giá rẻ với kỹ năng thấp, thực hiện các công đoạn có GTGT thấp và ở vị trí thấp trong chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu.

Hiện chưa có nhiều DN trong khu vực kinh tế có vốn ĐTNN lựa chọn vào 1 số ngành, lĩnh vực chất lượng cao như công nghệ cao, công nghệ sạch, nông nghiệp (nhất là lĩnh vực có giá trị gia tăng và xuất khẩu cao), dịch vụ có hàm lượng tri thức cao, dịch vụ khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, kết cấu hạ tầng.

Mức độ gắn kết của các DN FDI với nền kinh tế VN còn thấp. Những nước tiếp nhận đầu tư như VN luôn kỳ vọng các DN FDI đã đầu tư vào sẽ tiếp tục hoạt động, tăng quy mô và chất lượng đầu tư — hay nói cách khác là tăng mức độ gắn kết với chủ nhà.


Về nguồn lực, những yếu tố được coi là lợi thế của VN như chi phí lao động thấp, chi phí sản xuất thấp, chính sách ưu đãi của CP VN sẽ không là lợi thế, đặc biệt là với FDI chất lượng cao.


Samsung là 1 ví dụ điển hình. Mặc dù công ty này đã xây dựng 1 trung tâm R&D tại VN nhưng vẫn chủ yếu thực hiện chức năng “kiểm thử” chứ không phải những khâu có giá trị cao. Về mặt mạng lưới, khu vực FDI không có nhiều liên kết với các DN trong nước, lãnh đạo các MNC rất khó tìm được các nhà cung ứng đáp ứng yêu cầu của họ. Các DN FDI vẫn chủ yếu phụ thuộc nhiều vào hàng hoá trung gian và nguyên vật liệu thô nhập khẩu; chưa có được mối liên kết với các chuỗi cung cấp là các DN trong nước.


BHXH VN cho biết chi tiền thuốc từ quỹ bảo hiểm đã tăng từ 11.5K tỉ (2010) lên hơn 40.5K tỉ (2022), vật tư y tế từ 750 tỉ (2010) lên 13.5K tỉ (2022).


Văn hoá VN ít nam tính hơn các nền văn hoá đạo Khổng khác (40/100 so với 66 của TQ và 95 của NB), truyền thống phụ nữ tham gia buôn bán nhỏ, ảnh hưởng của các cuộc chiến tranh kéo dài, buộc nữ giới phải tham gia vào lực lượng lao động…


Tuổi nghỉ hưu bắt buộc với phụ nữ là 55 — sơm hơn 5 năm so với nam giới. Cộng thêm 6 năm để sinh và chăm sóc 2 con, thời gian phấn đấu của người phụ nữ bị giảm hơn nam giới đến ít nhất 10 năm. Thời gian làm việc ngắn hơn của phụ nữ khiến nhà tuyển dụng ít có động cơ thăng chức cho họ hơn, vì các đồng nghiệp nam của họ được coi là những khoản đầu tư tốt hơn về lâu dài.