Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Thực hành quyền công tố là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự.

Kiểm sát hoạt động tư pháp là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân để kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp, được thực hiện ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự; trong việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; việc thi hành án, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp; các hoạt động tư pháp khác theo quy định của pháp luật.


Trong các cuộc bầu cử quốc hội tại Việt Nam, các ứng cử viên đều phải được Mặt trận Tổ quốc phê chuẩn để đưa vào danh sách ứng cử viên. Đồng thời, Mặt trận Tổ quốc còn đảm nhiệm việc giám sát cuộc bầu cử.


Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập, các lãnh đạo Đảng đã quyết định sẽ thành lập một tổ chức ngoại biên là Mặt trận dân tộc thống nhất, nhằm tập hợp và lãnh đạo quần chúng.


Đến Đại hội Đảng lần thứ 3 (1960) thì điều lệ đảng xóa bỏ chữ “Engels, Stalin và tư tưởng Mao Trạch Đông”, và từ Đại hội Đảng lần thứ 7 (1991) thêm vào chữ “Tư tưởng Hồ Chí Minh”.


Cương lĩnh năm 2011 sử dụng từ “nhân dân” chứ không nói “nhân dân lao động”, không nói “quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa”, mà chỉ nói “quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp”.


Theo ông Phùng Hữu Phú, Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam thì hiện nay đã có ý kiến đề nghị bỏ chủ nghĩa Marx-Lenin, chủ nghĩa xã hội vì “đã lạc hậu lắm rồi” tuy nhiên “không còn thừa nhận chủ nghĩa Marx - Lenin tức là không thừa nhận sự lãnh đạo của Đảng. Các đảng phái sẽ mọc lên như nấm và quốc gia sẽ bước vào thời kỳ thập nhị sứ quân, rối loạn.”


Chủ nghĩa cộng sản đặt ra mục tiêu cuối cùng là xóa bỏ giai cấp, bóc lột, xóa bỏ giàu - nghèo, làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu, công hữu trên nền tảng dân chủ, xóa bỏ giáo điều tôn giáo được xem là mị dân, xóa bỏ nhà nước đi đến dân chủ trực tiếp và bình đẳng, xóa bỏ các đường biên giới quốc gia, đưa các dân tộc đến cùng một lợi ích, xóa bỏ bất bình đẳng giữa các dân tộc trên phạm vi thế giới.


Trong chiến tranh Việt Nam, ở miền Bắc buộc phải thực hiện chế độ phân phối thời chiến, Hồ Chí Minh đã từng nhắc nhở cán bộ về tư tưởng Khổng Tử: “Không sợ thiếu chỉ sợ không công bằng, không sợ đói chỉ sợ lòng dân không yên”.


Trong thời kỳ chiến tranh, chính sách này có tác dụng tốt là phân phối đồng đều hàng hóa thiết yếu cho mọi người dân, giúp người lính yên tâm ra trận mà không phải lo lắng về sinh kế của vợ con, ngăn chặn đầu cơ tích trữ và nhanh chóng dồn nguồn lực cho quốc phòng.


Khi Nam Tư đưa ra khái niệm kinh tế thị trường, họ đã bị khai trừ ra khỏi hệ thống các nước Xã hội chủ nghĩa vì bị coi là khôi phục chủ nghĩa tư bản, nếu Việt Nam làm theo thì có thể sẽ gặp hậu quả tương tự.


Ngoài ra, ở miền Nam thời kỳ đó, Hoa kiều kiểm soát gần như toàn bộ các vị trí kinh tế quan trọng, đặc biệt là kiểm soát 3 lĩnh vực quan trọng: sản xuất, phân phối, và tín dụng. Đến cuối năm 1974, họ kiểm soát hơn 80% các cơ sở sản xuất của các ngành công nghiệp thực phẩm, dệt may, hóa chất, luyện kim, điện… và gần như đạt được độc quyền thương mại: 100% bán buôn, hơn 50% bán lẻ, và 90% xuất nhập khẩu. Hoa kiều ở miền Nam gần như hoàn toàn kiểm soát giá cả thị trường miền nam. Xung đột với Khmer Đỏ (đồng minh của Trung Quốc) nổ ra, Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa, người Hoa ở Chợ Lớn tổ chức biểu tình đòi giữ quốc tịch Trung Quốc, những điều này khiến cho chính phủ Việt Nam lo ngại rằng Hoa kiều sẽ tiếp tay cho Trung Quốc để phá hoại. Việc quốc hữu hóa tài sản, thực hiện kinh tế bao cấp đã chấm dứt việc người Hoa kiểm soát nền kinh tế tại miền Nam.


Sau năm 1975, hoàn cảnh của Việt Nam rất khó khăn: Mọi miền đất nước đều bị chiến tranh tàn phá, hàng triệu nạn nhân chiến tranh cần được nuôi sống và hỗ trợ, chính sách cấm vận của Mỹ, rồi lại phải đương đầu với hai cuộc Chiến tranh biên giới Tây Nam và Chiến tranh biên giới phía Bắc nên phải chi tiêu rất nhiều cho quốc phòng, trong khi đó sự giúp đỡ của các nước đồng minh cũng không còn như trước, do vậy việc phân phối hàng hóa thiết yếu theo chế độ tem phiếu bao cấp vẫn cần tiếp tục duy trì trên phạm vi cả nước. Ngày nay nhiều người quen sống đầy đủ, chưa từng trải qua thời kỳ đó nên nghĩ thời bao cấp là “bất bình thường, đẩy nhân dân vào đói nghèo”, nhưng trong bối cảnh lịch sử khi đó, việc hạn chế các nhu cầu tiêu dùng cá nhân của hàng triệu người chính là biện pháp cần thiết để dồn nguồn lực cho sự nghiệp bảo vệ đất nước.


Ngoài hàng tiêu dùng, dưới thời bao cấp nhà nước còn nắm cả việc phân phối nhà cửa. Tiêu chuẩn là mỗi người được 4 mét vuông. Những khu nhà tập thể giống như ở Liên Xô được xây lên trong thành phố và cấp cho cán bộ trung cấp và công nhân nhưng quản lý kém khiến khu đất công cộng bị lấn chiếm khiến khó nhận ra đâu là của chung, đâu là của riêng. Nhà cửa hư hỏng thì có Sở nhà đất lo sửa. Đời sống trong những khu tập thể này càng tồi tệ với việc chăn nuôi gia súc trong những căn hộ chật hẹp, mất vệ sinh. Đây cũng là một khía cạnh của thời bao cấp trong thành phố. Giá nhà ở các thành phố tương đối rẻ, nhưng công nhân viên chức vẫn không mua nổi vì thu nhập quá thấp.


Chế độ tem phiếu với mức giá khác xa so với giá thị trường đã biến chế độ tiền lương thành lương hiện vật, thủ tiêu động lực kích thích người lao động và phá vỡ nguyên tắc phân phối theo lao động.


Trong thời bao cấp xảy ra một nghịch lý là người dân thành thị có khẩu phần ăn thấp hơn người dân nông thôn trong khi ở các quốc gia khác thành thị luôn có mức sống cao hơn nông thôn.


Theo luật học, cơ quan tư pháp hay hệ thống tư pháp là một hệ thống tòa án nhân danh quyền tối cao hoặc nhà nước để thực thi công lý, một cơ chế để giải quyết các tranh chấp.


Những năm đó QH có mỗi một chức năng duy nhất là hợp thức hoá đường lối của ĐCSVN. Phải đến năm 1985 QH mới bắt đầu khởi sắc, có những đại biểu lên tiếng phát biểu tự do hơn, thay vì trước kia Tổng thư ký QH phải duyệt trước bài diễn văn của đại biểu.


Chính phủ hầu như chỉ trình các báo cáo lên BCT trước mà không trình QH. Chỉ sau khi BCT kết luận thì báo cáo mới được trình QH.


Vai trò lãnh đạo rõ rệt nhất của ĐCS với QH là cơ quan Đảng đoàn QH. Đảng đoàn QH chịu sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của BCT, Ban Bí thư. Các chức vụ Bí thư, Phó Bí thư và các Uỷ viên Đảng đoàn đều do BCT chỉ định.


QH nắm quyền lập pháp, nhưng thực tế phần lớn các dự thảo luật là do CP và các Bộ nghành soạn thảo, đệ trình.


Quyền lập pháp không phải là quyền làm luật, mà là quyền cho phép ban hành pháp luật, muốn điều chỉnh hành vi thì phải có luật, sau đó trình sang QH.


Đây là nhóm được cho là “tuyệt đối trung thành” nên thường được ưu tiên để đi học, nhận học bổng, đầu tư chuyên ngành, du học, và vào các vị trí quan trọng.

Tuy nhiên, giới chỉ trích cho rằng đây là cách làm phản dân chủ, ưu đãi thân nhân, tạo bè phái, và chỉ đưa đến gia đình trị.


Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ODA ở Việt Nam:

Một là, nhận thức đúng đắn về bản chất nguồn vốn ODA với 2 mặt chính trị và kinh tế gắn kết chặt chẽ với nhau để trên cơ sở đó khai thác tác động tích cực về chính trị và kinh tế của vốn ODA có lợi cho sự nghiệp phát triển của đất nước. Trong bối cảnh là nước có mức thu nhập trung bình, Việt Nam cần xác định rõ định hướng tổng thể về thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA để làm căn cứ cụ thể hoá các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong việc huy động nguồn lực này; xác định được những lĩnh vực ưu tiên cần sử dụng vốn ODA tránh tình trạng phân bổ dàn trải, tạo tâm lý ỷ lại, không nỗ lực tìm kiếm các nguồn vốn khác. 

Hai là, tăng cường vốn đối ứng, đặc biệt vốn đối ứng cho công tác giải phóng mặt bằng và tái định cư đối với các dự án đầu tư xây dựng.


Hiện nay, Việt Nam có hệ thống pháp luật phức tạp bậc nhất thế giới. Hệ thống này được đặc trưng bởi sự đồ sộ, rắc rối do có quá nhiều loại văn bản pháp luật được ban hành, nhưng lại có quá nhiều kẽ hở và lỗ hổng, các quy định chồng chéo, mâu thuẫn, thiếu đồng bộ với nhau, gây cản trở và đè nặng lên người dân, doanh nghiệp. Hệ thống pháp luật bị coi là thiếu tính thực tiễn và tính khả thi, thiếu sự minh bạch và không đi vào cuộc sống do quá trình xây dựng pháp luật thiếu tư duy, tầm nhìn, đầy cục bộ, thiếu công bằng và thể hiện lợi ích nhóm.